Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép VAS vào ngày hôm qua 13/10 điều chỉnh giảm, với thép cuộn CB240 giảm 200 đồng, xuống mức 14.310 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 giảm 360 đồng, có giá 14.410 đồng/kg.
Thương hiệu thép Hòa Phát giữ nguyên giá bán so với ngày hôm qua, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.600 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, hiện thép cuộn CB240 ở mức 14.510 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.720 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 giữ nguyên ở mức 14.350 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.660 đồng/kg.
Thép Việt Sing, hiện thép cuộn CB240 ở mức 14.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.510 đồng/kg.
Thép Việt Nhật điều chỉnh giảm giá, với dòng thép cuộn CB240 giảm 200 đồng, có giá 14.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.510 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.820 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.620 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.020 đồng/kg.
Thép VAS, với thép cuộn CB240 ở mức 14.260 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.360 đồng/kg.
Thép Pomina, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 15.730 đồng/kg; tuy nhiên, dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.940 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 giảm 100 đồng xuống mức 14.310 đồng/kg; còn với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.410 đồng/kg - giảm 310 đồng.
Thép Hòa Phát, dòng thép cuộn CB240 còn ở mức 14.360 đồng/kg; trong khi đó, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.570 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 15.580 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.680 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn giao dịch Thượng Hải hôm nay giảm 24 Nhân dân tệ, xuống mức 3.613 Nhân dân tệ/tấn.
Theo Platts, thị trường thép cuộn cán nóng (HRC), thép cây và thép phế liệu ở Châu Á có khả năng chứng kiến sự tăng giá hạn chế trong quý 4, tương tự như quý 3, được kìm hãm bởi nhu cầu của người dùng cuối thấp do lạm phát, sự mất giá của đồng tiền trong khu vực và năng lượng cao.
Triển vọng giá HRC châu Á có vẻ ảm đạm trong Q4 do nhu cầu thép từ các lĩnh vực bất động sản và sản xuất của Trung Quốc có thể vẫn yếu cho đến cuối năm, mặc dù một số hỗ trợ có thể đến từ các gói kích thích từ chính phủ Trung Quốc nhắm vào các ngành công nghiệp trong nước và chi tiêu tiêu dùng , theo nguồn thị trường.
Giá HRC SS400 của châu Á giảm 15,7% xuống 565 USD/tấn FOB Trung Quốc ngày 30/9 từ 670 USD/tấn ngày 1/7, kéo dài thiệt hại do gián đoạn liên quan đến Covid-19 của Trung Quốc và lĩnh vực bất động sản gặp khó khăn. Nhu cầu từ nhà sản xuất Trung Quốc cũng giảm trong thời gian này, đặc biệt là trong bối cảnh các đợt nắng nóng nghiêm trọng và tình trạng thiếu điện vào tháng Tám.
Theo dữ liệu từ S&P Global Commodity Insights, các nhà máy thép ghi nhận biên lợi nhuận âm trong suốt quý III và mức trung bình của họ ước tính giảm xuống còn âm 28,4 USD/tấn, từ mức âm 16,4 USD/tấn trong quý II chi phí sản xuất cao cũng có nghĩa là các nhà máy không muốn giảm giá xuất khẩu.
Nhu cầu yếu hơn cũng mở rộng sang các thị trường Đông Nam Á, đặc biệt là tại Việt Nam, nơi đồng Việt Nam giảm so với USD khiến các nhà máy nhập khẩu HRC đường biển kém thuận lợi hơn.
Trong khi một số nhà máy trong khu vực do dự trong việc giảm giá chào của họ xuống mức thấp hơn giá thành sản xuất, các nhà máy Ấn Độ hầu như giữ im lặng và cung cấp lượng HRC bổ sung Boron với số lượng hạn chế trong bối cảnh thuế xuất khẩu thép đang được áp dụng lần đầu tiên vào tháng Năm.
Các nhà sản xuất thép ở EU đã buộc phải cắt giảm sản lượng trong bối cảnh chi phí năng lượng cao, dẫn đến việc quan tâm mua HRC châu Á từ khối này cao hơn.
Những người tham gia thị trường kỳ vọng mức tăng giá hạn chế trong thời gian tới do lo ngại về tình trạng dư cung ở châu Á và việc cắt giảm sản lượng thép ở Trung Quốc vào mùa Đông.