Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát hiện đang ở mức giá cao nhất kể từ ngày 26/1. Cụ thể, với 2 sản phẩm của hãng bao gồm thép cuộn CB240 hiện ở mức 17.020 đồng/kg; với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.120 đồng/kg
Thép Việt Ý không có thay đổi về giá cả, với thép cuộn CB240 hiện có giá 16.970 đồng/kg; còn dòng thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 17.070 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức tiếp tục bình ổn giá, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.000 đồng/kg. Thép thanh vằn D10 CB300 hiện có giá 17.310 đồng/kg.
Thép Việt Mỹ, với 2 sản phẩm của hãng gồm thép cuộn CB240 ở mức 16.920 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.020 đồng/kg.
Thép Việt Nhật không thay đổi giá bán so với ngày hôm qua, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.000 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá bán 17.100 đồng/kg.
Thép Việt Sing, bao gồm dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.800 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.600 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát không có biến động về giá bán kể từ ngày 15/2, với thép cuộn CB240 ở mức 17.070 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.220 đồng/kg.
Thép Việt Đức , với thép cuộn CB240 ở mức 17.100 đồng/kg; với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.410 đồng/kg- đều là những mức cao nhất tính từ ngày 26/1.
Thép Việt Mỹ tiếp tục ổn định giá bán, với dòng thép cuộn CB240 hiện ở mức 16.970 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.020 đồng/kg.
Thép Pomina, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.660 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 hiện có giá bán 17.810 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát không có biến động về giá bán trong 10 ngày, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.020 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.120 đồng/kg.
Thép Pomina tiếp tục bình ổn giá bán, với thép cuộn CB240 giữ nguyên ở mức 17.560 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.760 đồng/kg.
Thép Việt Mỹ giữ nguyên giá bán so với ngày 23/2, dòng thép cuộn CB240 hiện ở mức giá 16.870 đồng/kg; với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.970 đồng/kg.
Thương hiệu thép Tung Ho, với dòng thép cuộn CB240 chạm mức 17.050 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.200 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 39 Nhân dân tệ so với phiên giao dịch trước, xuống mức 4.527 Nhân dân tệ/tấn.
Hiện tại, Trung Quốc đang thúc đẩy xây dựng nhà ở kết cấu thép và nhà tiền chế. Điều này sẽ làm giảm mức tiêu thụ thép và xi măng nói chung, từ đó giúp giảm lượng khí thải carbon của Trung Quốc.
Tuy nhiên, năng lực sản xuất HRC có thể đang mở rộng quá nhanh, nên tình trạng cạnh tranh gay gắt hoặc cung vượt cầu là điều không thể tránh khỏi trong tương lai gần, mặc dù nhu cầu thép dẹt tăng trưởng tiềm năng.
Hầu hết nhà sản xuất thép đang lên kế hoạch cho nhà máy mới đang xây dựng các cơ sở luyện gang và thép thô mới, với hạn ngạch công suất được mua từ nhà máy khác thông qua cơ chế hoán đổi công suất của Trung Quốc.
Các can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào sản xuất thép có thể giảm bớt vào năm 2022, song sản lượng thép thô của Trung Quốc năm nay vẫn có khả năng giảm hơn so với năm 2021, chủ yếu do nhu cầu thép kém trong bất động sản và các lĩnh vực liên quan.
Theo S&P Global Platts, việc mở rộng công suất thép cuộn cán nóng của Trung Quốc dự kiến sẽ đạt tăng nhanh trong năm 2022-2023 khi nước này đánh dấu sự chuyển đổi từ tăng trưởng kinh tế dựa vào bất động sản sang sản xuất, một sự phát triển dự kiến sẽ làm giảm nhu cầu đối với thép dài từ bất động sản và lĩnh vực cơ sở hạ tầng trong dài hạn.
Theo tính toán của Platts dựa trên các báo cáo chính thức và nguồn thị trường, Trung Quốc có khoảng 14 nhà máy thép cuộn nóng mới dự kiến đi vào hoạt động vào năm 2022, với tổng công suất sản xuất HRC khoảng 41,4 triệu tấn/năm.
Vào năm 2023, 10 nhà máy thép cuộn nóng khác sẽ đi vào hoạt động với tổng công suất sản xuất là 26,6 triệu tấn/năm.
Trung Quốc có khoảng 350 triệu tấn/năm năng lực sản xuất HRC, theo một số nguồn thị trường. Điều đó có nghĩa là nếu các nhà máy mới được đưa vào vận hành kịp thời, công suất sản xuất HRC của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 11,8% vào năm 2022 và 6,8% vào năm 2023.