"Chưa bao giờ Hà Nội, miền Bắc phải chịu một thử thách lớn lao, quyết liệt như lúc này. Cũng chưa bao giờ Hà Nội viết lên những trang sử chói lọi về lòng dũng cảm như những ngày qua" - Dòng nhật ký của Trung tướng Nguyễn Đức Soát đã khái quát đầy đủ, ngắn gọn về những giờ phút chiến tranh khắc nghiệt nhất vào tháng 12 năm 1972.
Sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các lực lượng binh chủng, như không quân tiêm kích, pháo cao xạ và tên lửa mặt đất… đã góp phần làm nên thắng lợi lẫy lừng của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” (Chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng 1972), giáng cho không quân Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử, buộc chính quyền Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973, để rồi Việt Nam dần tiến đến hòa bình, độc lập, thống nhất dân tộc năm 1975.
Trong bầu không khí tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không,” phóng viên tìm gặp những anh hùng dân tộc, những nhân chứng lịch sử để “ngược dòng” quá khứ bi hùng, tìm hiểu nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo và vô cùng hiệu quả.
Những hồi ức thời chiến, những bài học kinh nghiệm rút ra từ “Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
‘Én bạc’ bảo vệ vùng trời Thủ đô
Một ngày đầu tháng 12 lịch sử, tôi tìm đến nhà Trung tướng Nguyễn Đức Soát (nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân) để được nghe ông kể về Chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng 1972 (Linebacker 2). Ông là người đã bắn hạ 6 máy bay Mỹ và được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân khi mới 27 tuổi.
Trên bàn làm việc, tôi thấy để sẵn những cuốn nhật ký thời chiến, những hình ảnh tư liệu và cả mô hình máy bay MiG 21 mà ông từng lái – chiếc “Én bạc” can trường trên bầu trời Việt Nam.
Trung tướng Nguyễn Đức Soát kể: "Có thể nói đây là cuộc tập kích chiến lược lớn nhất, kể từ sau Thế chiến thứ 2, Mỹ đã dùng hơn 200 máy bay ném bom chiến lược B52, 175 máy bay tiếp dầu trên không, hơn 1.000 máy bay chiến thuật F4, F111 và các máy bay hải quân nữa. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán trước được kế hoạch này của Mỹ từ năm 1967, nên quân đội ta đã có sự chuẩn bị kỹ càng."
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội."
Trước đó, Hồ Chủ tịch cũng đã từng nói: "Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B57, B52 hay ‘bê’ gì đi chăng nữa, ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa, ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng."
Mục tiêu của quân đội Mỹ nhằm khiến nhân dân Hà Nội, và chính quyền Việt Nam phải hoảng sợ, nhụt chí, nhưng họ đã không thể ngờ tới chí khí cũng như những dự liệu kỹ lưỡng từ phía ta. Quân đội ta đã xác định rõ, muốn giành được thắng lợi cho chiến dịch, cần phải khéo léo kết hợp giữa các lực lượng binh chủng, như không quân tiêm kích, pháo cao xạ và tên lửa mặt đất, trong đó chủ lực là Phòng không-Không quân.
Quân ta bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F111, bắt sống 43 phi công Mỹ. Đây là tổn thất lớn chưa từng thấy ở những trận tập kích đường không lớn của quân đội Mỹ.
Cho dù giành thắng lợi, nhưng những thiệt hại mà quân đội Mỹ gây ra tại miền Bắc trong 12 ngày đêm là vô cùng to lớn. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc đã phải hứng chịu hơn 80.000 tấn bom đạn tàn phá, hủy diệt của đế quốc Mỹ. Riêng với Thủ đô Hà Nội, Mỹ đã sử dụng 441 lượt máy bay B52 cùng hàng nghìn lượt máy bay chiến thuật, ném hơn 10.000 tấn bom hủy diệt nhiều khu phố, làng mạc.
Trung tướng Nguyễn Đức Soát có 43 năm phục vụ trong quân đội và có tới 37 năm gắn bó với Quân chủng Phòng không-Không quân, gắn bó với bầu trời. Ông cho rằng sức mạnh của bộ đội không quân không chỉ là những chiếc máy bay chiến đấu hiện đại mà yếu tố quyết định làm nên sức mạnh thực sự là một đội ngũ phi công tài ba, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì nước, là một đội ngũ cán bộ chỉ huy có bản lĩnh, luôn vững vàng trước thử thách luôn khiêm tốn học hỏi để vượt lên chính bản thân.
Quân đội ta đã rút ra nhiều bài học từ Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không.” Theo Trung tướng Nguyễn Đức Soát, quan trọng nhất là bài học về "nghệ thuật sử dụng lực lượng và tổ chức hiệp đồng giữa các lực lượng tác chiến của Quân chủng Phòng không-Không quân."
Theo kế hoạch tác chiến, bộ đội tên lửa là lực lượng nòng cốt đánh tiêu diệt máy bay B52; bộ đội không quân tiêm kích là lực lượng tiến công phá vỡ và gây rối loạn đội hình máy bay địch đồng thời là lực lượng công kích bắn hạ B52; bộ đội pháo cao xạ đảm nhiệm bắn máy bay tiêm kích và cường kích của địch. Ngoài ra, bộ đội rađa và lực lượng dân quân tự vệ cùng phối hợp chiến đấu. Sự phối hợp tác chiến nhịp nhàng, hiệu quả giữa các lực lượng, các binh chủng và các đơn vị bảo đảm góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch.
‘Rồng lửa’ xuất kích
Ký ức của nhiều người dân miền Bắc vẫn còn in đậm hình ảnh từng đoàn, từng đoàn “Rồng lửa” (tên lửa SAM2) xé màn đêm lao vun vút trên trời cao, “vít cổ” dàn máy bay B52, đập tan cuộc tấn công của đế quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác ở miền Bắc.
Giải thích về cách đánh B52 của bộ đội tên lửa, Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đình Kiên nói bí quyết bắn rơi “giặc trời” B52 nằm ở kỹ năng “vạch nhiễu tìm thù.”
Trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ông là sỹ quan trực tiếp tham gia chiến đấu, bắn rơi 4 máy bay B52 của không quân Mỹ.
Đại tá Nguyễn Đình Kiên nhớ lại: "Pháo đài bay B52 có trang bị rất nhiều máy gây nhiễu. Mỗi khi xuất kích, đội hình B52 được hộ tống rất chặt chẽ bởi các máy bay tiêm kích ở cùng độ cao, cùng đủ loại nhiễu để đánh lừa bộ đội phòng không của ta. Nhiễu nhòe nhoẹt màn hình ra đa. Trước mắt chúng tôi chỉ là một màn sương mù, sáng trắng.”
Rồi dần dần các chiến sỹ trấn tĩnh lại, liên hệ với những điều đã học, nhắc nhau thao tác thật chính xác. Cuối cùng, tuy kẻ thù chưa hiện ra thực sự nhưng họ có thể phán đoán được bóng dáng của chúng phía sau những dải nhiễu.
Vậy là Tiểu đoàn 57, Trung đoàn 261, Sư đoàn 361 (Quân chủng Phòng Không-Không quân) của Đại tá Nguyễn Đình Kiên đã lập kỳ tích bắn rơi 2 máy bay B52 trong 10 phút.
Trong màn nhiễu dày đặc, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt, sỹ quan điều khiển tên lửa Nguyễn Đình Kiên và 3 trắc thủ Mè Văn Thi, Ngô Văn Lịch, Nguyễn Xuân Đài nhanh chóng xác định vị trí một chiếc B52.
Địch vào cự ly 35km, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt hạ lệnh phóng nhưng quả đầu tiên bị hỏng. Sỹ quan điều khiển Nguyễn Đình Kiên phóng tiếp quả đạn thứ 2, bắn rơi B52 ở cự ly 25km.
“Lúc này là 5 giờ 9 phút ngày 21/12/1972. Niềm vui tràn ngập trận địa. Nhưng không hề có phút giây hò reo mừng chiến công, chúng tôi giữ niềm hân hoan trong lòng, hết mực chú tâm vào màn hình,” Đại tá Nguyễn Đình Kiên kể.
Ngay sau đó, tiếng hô của một chiến sỹ vang lên: "B52 cự ly 45km." Lúc này, trên bệ phóng còn duy nhất 1 quả tên lửa.
Khi tín hiệu máy bay địch vào đến cự ly 35km, Tiểu đoàn trưởng ra lệnh tiêu diệt. Sỹ quan Nguyễn Đình Kiên lập tức ấn nút phóng. Đạn gặp mục tiêu ở cự ly 24km. Nhìn trên màn hình, các chiến sỹ thấy vạch nhiễu không còn, họ xác định mục tiêu bị tiêu diệt. Đồng hồ chỉ 5 giờ 19 phút ngày 21/12/1972.
Nhớ lại chiến công đặc biệt đó, anh hùng Nguyễn Đình Kiên cho rằng quân ta thắng nhờ tinh thần quả cảm và sáng tạo trong chiến đấu.
“Sự sáng tạo ấy thể hiện ở hai yếu tố: Một là kinh nghiệm chống nhiễu. Hai là cải tiến khí tài tốt, cụ thể, trước đây đầu đạn tên lửa chỉ có 320 mảnh, sau đó được cải tiến lên thành hơn 3.000 mảnh đạn, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả chiến đấu," Đại tá Nguyễn Đình Kiên nói.
Trong cuộc đời quân ngũ, chưa bao giờ ông cảm thấy vất vả và ác liệt như 12 ngày đêm trong chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên phủ trên không.” Ông cũng chưa bao giờ thôi phấn khởi, tự hào về binh chủng, đơn vị mình như thời gian này.
“Ngồi nghĩ lại những ngày đã qua, tôi cảm thấy không hổ thẹn với cuộc đời vì những ngày đó tôi đã sống và chiến đấu không phí hoài tuổi trẻ,” ông Kiên nói.
Ông cho rằng bản thân kíp chiến đấu của mình chỉ là những người đưa quả đạn vào đúng mục tiêu, còn chiến công là của cả tập thể gần 100 con người của Tiểu đoàn 57 ngày đêm chăm lo đảm bảo vũ khí, khí tài để cho kíp chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ.
Nhận định về Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không,” tiến sỹ Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng dù nước Việt Nam không lớn, quân đội Việt Nam không có nhiều vũ khí, nhưng người Việt Nam có nghệ thuật quân sự của riêng mình. Đó là nghệ thuật quân sự dựa vào nhân dân, lấy đoàn kết và quyết tâm làm sức mạnh.
“Chiến thắng này là kết quả của sức mạnh tổng hợp trên nền móng truyền thống mấy ngàn năm giữ nước của dân tộc, từ ý chí quyết tâm đến cách đánh sáng tạo; sơ tán để bảo vệ nhân dân, giữ gìn lực lượng dự bị hỗ trợ chiến đấu; đoàn kết toàn dân tộc đến sức mạnh ủng hộ của quốc tế,” tiến sỹ Nhị Lê đánh giá.
Trận quyết chiến chiến lược “Điện Biên Phủ trên không” thêm một lần nữa chứng minh chân lý giản dị: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
Tròn 50 năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn mãi vang vọng, bởi dù ở thời đại nào, người Việt đều có chung một tình yêu nước, lòng tự tôn dân tộc và khát khao mãnh liệt rằng “bầu trời quê mẹ luôn xanh trong và mãi mãi bình yên, không bị vấy bẩn bởi bom đạn quân thù” như tâm nguyện của Trung tướng Nguyễn Đức Soát.