Công tác hiệp hội cần gỡ nhiều “nút thắt”
Có thể nói từ trước đến nay, nguồn lực hỗ trợ cho công tác hiệp hội (HH) rất hạn chế. Để đảm bảo tài chính, nhìn chung các HH phải tự trang trải bằng cách kêu gọi phí hội viên, chương trình tài trợ... Khó khăn đáng kể nữa là HH ra đời hầu như hoạt động mang tính phong trào, không có tính chiến lược. Cán bộ, nhân viên làm công tác hội không được đào tạo bài bản.
Ở các nước tiên tiến thường có lớp đào tạo chuyên cho người làm công tác hội thì ở Việt Nam, mới có lớp đào tạo người làm công tác xã hội, chưa có đào tạo chuyên về công tác hội hướng đến đối tượng là chủ DN (như đào tạo tổng thư ký, chánh văn phòng HH…). Trong khi đó, nhiều tổ chức hội, HH được thành lập tràn lan, nhưng đối tượng, mục tiêu và phương thức hoạt động không khác nhau - nghĩa là một chủ DN có thể tham gia 5 - 7 hội, quá nhiều hội cùng “chăm sóc” một đối tượng DN. Xảy ra tình trạng này cũng một phần do bản thân cơ quan Nhà nước khi cấp phép thành lập HH ngành nghề chưa có chọn lọc để có những hội mang tính chất đặc thù, hoạt động hỗ trợ hiệu quả cho cơ quan quản lý Nhà nước, chứ không chỉ mang tính hình thức. Ngoài ra, một khó khăn nữa ảnh hưởng đến hoạt động của các HH DN là hiện nay, hầu hết sở, ban, ngành đều thành lập ra trung tâm làm dịch vụ công, mà bản thân các trung tâm đó cũng có mối liên hệ với DN. Thực tế những việc đó nên xã hội hóa cho các HH làm để họ tăng nguồn thu, vì bản thân các sở, ngành đều có các trung tâm cung cấp dịch vụ cho đối tượng là DN, như Trung tâm XTTM (Sở Công Thương), Trung tâm dịch vụ đối ngoại (Sở Ngoại vụ)...
Trước những khó khăn vướng mắc này, để tạo cơ chế thuận lợi cho các HH DN, thứ nhất, TP nên dành nguồn quỹ riêng cho hoạt động của HH, khi họ đã trình được phương án hàng năm về những vấn đề liên quan tài chính. Hai là, trong nước rất cần có lớp đào tạo dành cho người làm công tác hội hướng đến đối tượng phục vụ là DN. Thứ ba, các dịch vụ công dành cho DN thì nên chuyển cho HH, vừa để HH nâng cao vai trò đối với DN vừa để có thêm nguồn thu. Thứ tư, đối với các dự án lớn của TP như ODA, FDI…, các HH cần được thông tin một cách chính thống và đầy đủ để từ đó cung cấp cho các hội viên. Như thế, các DNVVN mới có thể tham gia vào chuỗi giá trị cung ứng trong các dự án đó, thay vì hiện nay, “sân chơi” này chủ yếu dành cho DN lớn, DN nhà nước.
Đặc biệt, đối với cơ chế chính sách, chương trình hỗ trợ cho DN thì trước khi xây dựng, ban soạn thảo nên mời các tổ chức HH và một số DNVVN đang có khó khăn đến tham gia cùng đóng góp. Hà Nội hiện có 17 vạn DN, nhưng thực tế từ trước đến nay khi 1 quyết định mới được ban hành thì thường chỉ khoảng 20 DN được thụ hưởng, mà nếu quyết định đó được hỏi ý kiến DN trước khi ban hành thì số DN được thụ hưởng sẽ lớn hơn. Số DN được thụ hưởng chính sách là quá khiêm tốn và mới tập trung vào DN lớn, còn DNVVN - đối tượng đáng được hỗ trợ nhất thì ít khi thỏa mãn được các tiêu chí của chính sách. Từ thực trạng này, bản thân HASMEA sẽ cố gắng sát cánh cùng DNVVN để có những phản ánh sát thực hơn, giúp nhiều DN được hưởng chính sách.
Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HASMEA
|