Lo ngại vấn đề xả thải
Chiều 14/2, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức họp báo chuyên đề về các nội dung liên quan đến nhà máy Bột - Giấy VNT19.
Tại buổi họp báo, các phóng viên, nhà báo đặt nhiều câu hỏi với ngành chức năng về dự án, nhất là nước thải và những ảnh hưởng đến môi trường và sinh kế của người dân khi nhà máy đi vào hoạt động.
Theo Phó Giám đốc Sở TN-MT Quảng Ngãi Nguyễn Quốc Tân, dự án Nhà máy Bột -Giấy VNT19 đã trải qua thời gian dài triển khai. Dưới áp lực của dư luận và quy định của pháp luật, chủ đầu tư đổi sang công nghệ, thiết bị của châu Âu để xử lý nước thải và thực hiện các yêu cầu của các chuyên gia, nhà khoa học sau khi tổ chức tư vấn, phản biện hệ thống xử lý nước thải, tuyến đường ống xả thải của dự án.
“Theo quan điểm cá nhân tôi, đến thời điểm này, với quy trình được duyệt, phản biện và ý kiến của chuyên gia thì hệ thống xử lý nước thải của dự án là đáng tin tưởng. Phải nói thêm rằng, Nhà máy Bột- Giấy VNT19 là dự án được Bộ TN-MT thẩm định. Theo quy định, dự án do bộ cấp giấy phép môi trường với nhiều nội dung, trong đó có nước thải, nếu không đạt quy chuẩn sẽ không cấp phép và dự án không thể hoạt động”- ông Tân nói.
Ông Tân cũng thông tin, tại Quảng Ngãi, cùng với thép Hòa Phát – Dung Quất và nhà máy lọc dầu, dự án Nhà máy Bột- Giấy VNT19 thuộc diện giám sát đặc biệt của Bộ TN-MT. Ngoài ra, các thông số về nước thải cũng được công khai để cộng đồng dân cư giám sát, theo dõi.
Đối với ý kiến về việc người dân phản đối không cho xả thải ra vịnh Việt Thanh (xã Bình Trị) vì sợ ảnh hưởng môi trường, tác động tiêu cực đến sinh kế của ngư dân trong vùng, ông Tân cho rằng những lo ngại này hoàn toàn có lý.
“Người dân yêu cầu chính quyền cần có cam kết nếu xảy ra sự cố về môi trường. Tuy nhiên, với cơ quan quản lý, lãnh đạo các sở, ngành, khi ký các quyết định chính là phải chịu trách nhiệm với các vấn đề có liên quan. Quảng Ngãi nhất quyết không đánh đổi môi trường để lấy lợi ích kinh tế. Với những dữ liệu hiện có, đủ tin tưởng để hỗ trợ dự án tiếp tục thực hiện và hoàn thành, mang lại hiệu quả kinh tế cho tỉnh”- ông Tân nói.
Phó Giám đốc Sở TN- MT Quảng Ngãi còn cho rằng, dự án VTN19 là dự án có mức đầu tư rất lớn, nhà đầu tư phải có tính toán kỹ và tuân thủ các quy định. Đồng thời, doanh nghiệp phải xây dựng phương án xử lý sự cố môi trường và trình Bộ TN-MT phê duyệt.
Giám đốc Sở Thông tin - Truyền thông Quảng Ngãi Trần Thanh Trường cho biết, thời gian qua, do chưa có sự đồng thuận cao của người dân xung quanh khu vực dự án triển khai nên việc thi công Nhà máy Bột- Giấy VTN19 kéo dài, không đảm bảo tiến độ.
"Buổi họp báo được tổ chức nhằm cung cấp đầy đủ, trung thực, khách quan về dự án cho các phóng viên, nhà báo, để từ đó thông tin cho người dân hiểu và đồng thuận nhiều hơn đối với nhà máy"- ông Trường nói.
Chú trọng vấn đề giảm thiểu môi trường
Theo thông cáo báo chí của ban tổ chức, đến thời điểm hiện tại, khối lượng dự án Nhà máy Bột – Giấy VNT19 đạt khoảng 75%, trong đó công tác đền bù giải phóng mặt bằng đạt 95%, xây lắp đạt 70%, thiết kế đạt 95%, mua sắm đạt 75%, bảo dưỡng sửa chữa đạt 80%.
Ngay từ trong quá trình thiết kế, đơn vị chủ đầu tư rất chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, phát triển bền vững nhiễm môi trường qua việc áp dụng những giải pháp kỹ thuật hạn chế nguồn phát nước thải như: Dịch rửa giai đoạn sau được làm nước rửa cho giai đoạn trước, trong một vòng tuần hoàn khép kín; toàn bộ dịch đen cô đặc được thu hồi đem đốt để phát điện cho Nhà máy điện 54 MW đồng thời thu hồi hóa chất tại sử dụng.
Nước thải từ khu vực tẩy trắng bột được đưa qua thiết bị trao đổi nhiệt trước khi thải ra, nhằm giảm nhiệt độ nước thải và tận thu nhiệt trước khi đi xử lý; sử dụng hệ thống khử dư lượng Clodioxit cho nước thải tẩy bột; tại xưởng xeo bột, nước thải chủ yếu là nước trắng được tái tuần hoàn để pha loãng bột làm nước giặt chăn lưới và nước sử dụng làm nước làm mát.
Đối với vấn đề xử lý nước thải, Công ty đầu tư phân xưởng xử lý nước thải hoàn toàn mới 100% với công nghệ và thiết bị xử lý tốt nhất hiện nay từ Châu Âu do công ty Aquaflow là đơn vị đã thiết kế xử lý nước thải cho khoảng 200 nhà máy sản xuất giấy và bột giấy trên toàn thế giới đến từ Phần Lan thiết kế, cung cấp thiết bị, giám sát lắp đặt, chạy thử và chuyển giao đảm bảo nước thải sau xử lý đạt và tốt hơn tiêu chuẩn của QCVN 12-MT: 2015/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột giấy.
Bên cạnh việc tuân thủ theo cáo cáo đánh giá tác động môi trường được duyệt, Công ty đã tiếp thu các ý kiến của các sở, ngành, Bộ TN-MT bổ sung các biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố, giám sát, bảo vệ.
Trong đó, nâng công suất của hồ sự cố theo thiết kế của nhà thầu Aquaflow – Phần Lan từ 20.000m lên 50.000m; bổ sung hồ sinh học với dung tích 25.000m’ tạo hệ thống liên hồ gồm: Hồ sự cố và hồ sinh học với sức chứa 75.000 mở đủ để duy trì họat động và xử lý sự cố trong vòng 3 ngày; bổ sung hồ nuôi cá kiểm chứng (thả cá, sinh vật phù du, bọ nước, bèo, rong rêu là những động thực vật thủy sinh vật chỉ thị rất nhạy cảm với môi trường để kiểm chứng mức độ độc hại của nước thải); nước thải trước khi xả ra môi trường tiếp tục được kiểm tra tự động và có camera giám sát tại hai điểm trước hồ sinh học và sau hồ nuôi cá.
Kết quả kiểm tra và hình ảnh được truyền trực tiếp và liên tục 24/7 về Sở TN-MT và Bộ TN-MT. Quá trình xây dựng, lắp đặt, vận hành phân xưởng xử lý nước thải được sự giám sát, thanh kiểm tra chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước và người dân địa phương.
Nhà máy Bột- Giấy lớn nhất Việt Nam VNT19 do Công ty cổ phần Bột giấy VNT19 làm chủ đầu tư, được UBND tỉnh Quảng Ngãi cấp chứng nhận đầu tư vào ngày 31/3/2011, công suất 250.000 tấn bột giấy tẩy trắng/năm, được xây dựng ở thôn Phú Long (xã Bình Phước, huyện Bình Sơn). Vị trí xả thải của dự án là vịnh Việt Thanh (xã Bình Trị, huyện Bình Sơn).
Qua nhiều lần điều chỉnh, hiện dự án được nâng công suất giai đoạn 1 là 350.000 tấn bột giấy tẩy trắng/năm, diện tích đất sử dụng (giai đoạn 1) là 117ha, tổng vốn đầu tư gần 9.900 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm. Tiến độ điều chỉnh dự kiến đưa vào hoạt động cuối quý IV/2024.
Về hiệu quả kinh tế, khi dự án đi vào hoạt động sẽ tiêu thụ 1,4 triệu tấn dăm gỗ/năm và bằng khoảng 55% - 60% lượng gỗ dăm đang xuất khẩu qua cảng Dung Quất. Điều này góp phần giảm việc xuất thô dăm gỗ, gia tăng giá trị trồng rừng, sản xuất, tạo sự ổn định, ít phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu nguyên liệu dặm thô khi giá dăm biến động.
Công ty này cũng đưa ra cam kết với cộng đồng, sẽ hỗ trợ chuyển đổi nghề, bố trí việc làm phù hợp cho người dân có nhu cầu. Đồng thời, ưu tiên tuyển dụng, đào tạo lao động là người địa phương, nhất là các xã chịu ảnh hưởng trực tiếp từ dự án như: Bình Trị, Bình Phước, Bình Hải.