Dự kiến, từ quý III tăng trưởng phục hồi. Đây là thông tin được nêu trong Báo cáo đánh giá tác động của Covid-19 đến nền kinh tế và các khuyến nghị chính sách ứng phó của trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nhiều kịch bản cho nền kinh tế
Báo cáo cho rằng, nếu dịch Covid-19 kéo dài đến hết tháng 4/2020, có 49,2% DN vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh; 31,9% cắt giảm quy mô sản xuất; có 18,1% phải tạm dừng hoạt động và 0,8% có khả năng phá sản.
Tuy nhiên, nếu dịch kéo dài đến hết tháng 6/2020, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn khi chỉ còn 14,9% DN duy trì được hoạt động; 46,6% DN tiếp tục cắt giảm quy mô; 32,4% sẽ tạm dừng hoạt động và 6,1% DN đứng trên bờ vực phá sản. Tỷ lệ DN có khả năng phá sản sẽ tăng cao, đến mức 19,3% nếu dịch kéo dài đến hết tháng 9/2020 và 39,3% nếu dịch kéo dài đến hết năm nay.
Sản xuất thiết bị điện tử tại Công ty Hanel, Khu công nghiệp Sài Đồng, quận Long Biên. Ảnh: Chiến Công |
Theo báo cáo này, tăng trưởng GDP quý II của Việt Nam dự báo khoảng 2,0% so với cùng kỳ và thậm chí suy thoái nếu xảy ra kịch bản xấu. Dự kiến, từ quý III tăng trưởng phục hồi. Xuất khẩu giảm từ khoảng 25% trong quý II và phục hồi về mức giảm 15% trong các quý sau của năm 2020.
Tránh tối đa đổ vỡ các tập đoàn lớn
Trong bối cảnh đó, khuyến nghị của nhóm nghiên cứu là cần có sự lựa chọn hợp lý các chính sách cũng như đối tượng hỗ trợ. Bởi một số ngành chịu ảnh hưởng nặng nề, nhưng một số ngành vẫn có cơ hội phát triển tốt. Đồng thời, cần phải xây dựng nhiều kịch bản chính sách kinh tế khác nhau nhằm ứng phó với tình hình dịch ở cả Việt Nam lẫn các nước khác trên thế giới.
Độ mở lớn của kinh tế Việt Nam dẫn đến việc đại dịch có thể được kiểm soát ở Việt Nam cũng không thể làm cho nền kinh tế phục hồi ngay nếu nó vẫn tiếp diễn ở các quốc gia khác.
Báo cáo nhận định, nếu bệnh dịch trong nước có thể kiểm soát ngay trong tháng 4 hoặc cùng lắm đến hết quý II thì phản ứng chính sách nên mang tính "hỗ trợ".
Nếu bệnh dịch kéo dài hơn (đến quý III hoặc hết năm 2020) Chính phủ cần tính tới các biện pháp can thiệp mạnh mẽ hơn mang tính "giải cứu".
Các chính sách cần hướng đến việc cải thiện khả năng thanh khoản, kéo dài khả năng chống đỡ của DN và đảm bảo an sinh xã hội. Đặc biệt quan tâm đến những khu vực dễ bị tổn thương như người lao động, các DN nhỏ và vừa trong ngắn hạn (đặc biệt tại những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất) nhưng đồng thời cũng cần tránh sự đổ vỡ của các DN lớn, đầu tầu để từ đó lan sang các khu vực khác.
NHNN cần sẵn sàng bơm thêm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Lãi suất có thể cắt giảm thêm 1 – 2%. Khi các chính sách tiền tệ hay tài khóa truyền thống không đủ hỗ trợ khả năng thanh toán của DN thì cần có các can thiệp tài khóa trực tiếp từ Chính phủ như: Mua lại nợ, tăng sở hữu vốn nhà nước… ở một số lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Cần tránh tối đa sự đổ vỡ của các tập đoàn lớn.
Các tổ chức tín dụng cần công bố cụ thể và minh bạch các tiêu chí, quy trình hỗ trợ để DN và thị trường cùng nắm bắt được. Sự hỗ trợ từ phía ngân hàng chia làm 2 phương án. Phương án thứ nhất là gói cho vay (gói hỗ trợ 250.000 tỷ đồng mà các ngân hàng cam kết giải ngân và các gói khác nếu có) để hỗ trợ thanh khoản cho các DN “sống sót” qua mùa dịch.
Phương án thứ hai là “tân trang” các khoản nợ có nguy cơ “xấu” bởi Covid-19, để DN có thêm thời gian phục hồi, chẳng hạn như cơ cấu thời hạn trả nợ, giảm lãi, phí hay giữ nguyên nhóm nợ. Với Bộ Tài chính, thay vì chỉ là giãn, tạm hoãn cần thực hiện giảm thuế, miễn thuế, chi phí thuê mặt bằng...
Trong bối cảnh cầu chi tiêu từ khu vực DN và người dân giảm mạnh, Nhà nước cần đóng vai trò là đối tượng chi tiêu chính. Theo nhóm nghiên cứu, để tránh việc lạm dụng chính sách tiền tệ gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô trong dài hạn, cần các chính sách kích thích tổng cầu chủ yếu thông qua tăng đầu tư của Nhà nước vào cơ sở hạ tầng.
Đầu tư công phải đúng mục đích, tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt và cần đúng thời điểm mà nền kinh tế cần. Cần có sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội để tránh xảy ra những hệ lụy tiêu cực.
"Việc Chính phủ đang tập trung toàn bộ nguồn lực vào trong đầu tư phòng chống dịch có lẽ là một giải pháp trọng tâm, bởi càng đầu tư phòng chống dịch nhanh, tốt thì chúng ta sẽ càng có cơ hội để cho nền kinh tế sớm phục hồi. Ngoài ra, báo cáo cũng đưa ra các giải pháp để làm giảm bớt những khó khăn của DN, đặc biệt là các khoản đóng góp, những chi phí mà đang tạo ra gánh nặng cho DN. " - Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân Hoàng Văn Cường |