Nhiều tổ chức dự báo khả quan về kinh tế Việt Nam
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong dự báo mới nhất đều có những đánh giá lạc quan, nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2022 từ 7% lên 7,5% GDP, cao hơn 1 điểm % so với dự báo của 3 tháng trước đó.
Moody’s vào tháng 9/2022 đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định (chỉ kém mức đầu tư một bậc). Fitch cũng đang xếp Việt Nam ở hạng BB và triển vọng tích cực.
Ngân hàng Standard Chartered vừa qua cũng đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 6,7% lên 7,5% cho năm 2022 và từ 7% lên 7,2% cho năm 2023. Lạm phát sẽ tăng dần và đạt 5,5% trong năm 2023.
Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 8 thế giới về đà phục hồi sau đại dịch Covid-19. Việt Nam được kỳ vọng trở thành thị trường tiêu dùng toàn cầu lớn thứ 10 thế giới vào năm 2030…
Song không thể tự mãn với những kết quả và dự báo trên mà dẫn đến chủ quan. Thực tế trước mắt, nhiều yếu tố mới xuất hiện, chưa từng có tiền lệ và tình hình biến động nhanh, phức tạp, khó lường, vượt khỏi khả năng dự báo.
Vẫn còn nhiều khó khăn
Dù nền kinh tế Việt Nam đang có đà phục hồi mạnh mẽ, nhưng dịch bệnh đang tiếp tục diễn biến phức tạp, có nguy cơ “dịch chồng dịch”, trong khi tâm lý chủ quan đang lan rộng và công tác phòng chống dịch và năng lực y tế dự phòng còn không ít hạn chế. Đặc biệt, là nền kinh tế có độ mở cao, Việt Nam đang đối diện với áp lực điều hành giá, lãi suất, tỷ giá trước xu hướng lạm phát toàn cầu tăng cao và chính sách thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương Mỹ và châu Âu (hai thị trường xuất khẩu chính chiếm 41% thị phần xuất khẩu của Việt Nam).
Sự ổn định vi mô và bảo đảm các cân đối lớn trong nước cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trước xu hướng kinh tế thế giới đang ở thời điểm tăng trưởng chậm lại. Thậm chí một số nền kinh tế lớn rơi vào suy thoái cục bộ ngắn hạn. Bên cạnh đó là những tác động của biến đổi khí hậu, những căng thẳng địa chính trị ngày càng phức tạp.
Hơn nữa, thực tiễn cũng đòi hỏi cần có nhiều đột phá thực sự và đồng bộ, thực chất cả về nhận thức và thể chế trong việc tháo gỡ điểm nghẽn về ổn định cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu (nổi bật là xăng, dầu) cho sản xuất, đời sống, nhất là dịp lễ, Tết và đầu năm 2023; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường kiểm soát và lành mạnh hóa các thị trường trái phiếu DN, thị trường bất động sản và thị trường tín dụng, thị trường lao động, cũng như trong tái cơ cấu kinh tế và định hướng lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cùng với đó là tăng cường thu hút FDI đầu tư mới và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy liên kết giữa khu vực FDI và kinh tế trong nước; tiếp tục đẩy mạnh kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kiểm soát nợ xấu, nợ thuế và chi phí vốn của DN; thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo...
Đồng thời, chủ động khai thác tốt hơn các cơ hội kinh tế gắn với việc tham gia các FTA thế hệ mới, Hiệp định Đối tác Chiến lược toàn diện giữa Mỹ - ASEAN mới được thiết lập tại Hội nghị Cấp cao Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Mỹ lần thứ 10 diễn ra ở Campuchia, cũng như từ chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Đức cùng diễn ra trong trung tuần tháng 11/2022.
Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam sụt giảm mạnh trong năm 2022 sau giai đoạn tăng nóng, trước đó là sự cảnh báo gắn với các thách thức về triển vọng kinh tế thế giới và nội lực kinh tế trong nước, về những rủi ro và bất cập trong quản lý thị trường, vì sự phát triển ổn định, bền vững và minh bạch của thị trường…
Bởi vậy, cần rà soát tổng thể các quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn nhằm khắc phục ngay những bất cập, vướng mắc, từ đó khôi phục niềm tin và đảm bảo sự phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững của TTCK nhằm bảo đảm thị trường hoạt động an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Liên quan đến giải pháp phục hồi, phát triển lành mạnh TTCK Việt Nam, theo các chuyên gia kinh tế, trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục tập trung vào một số trọng tâm như: Tiếp tục kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế; Đẩy nhanh triển khai các cấu phần trong Chương trình phục hồi, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công; Đẩy nhanh hoàn thiện và thực thi thể chế, tăng cường kiểm tra, giám sát hợp lý, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả cho thị trường; Tăng cường củng cố tâm lý và niềm tin của nhà đầu tư..