Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Kỳ lạ “quả bom nợ hẹn giờ” của Nhật Bản

Hương Thảo
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Kỳ lạ là khi nền kinh tế số 3 thế giới vẫn tăng trưởng, dù tỷ lệ nợ trên GDP cao chót vót.

Một trường hợp khác biệt

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính rằng tỷ lệ nợ công của nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới là khoảng 260% - mức cao nhất trong số các nền kinh tế phát triển cho đến nay, vượt qua mức 204% trong Thế chiến II. Con số này dự kiến sẽ còn tăng nữa - theo báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản.

Thế nhưng, Tokyo lại tỏ ra tương đối lạc quan, khi kịch bản cho thấy tốc độ tăng trưởng tiềm năng của Nhật Bản vẫn đi lên.

Chính phủ Nhật Bản dự kiến nước này sẽ cân bằng được nợ công trong năm tài khóa 2026.

Điều này diễn ra khi mà lãi suất đang tăng lên. Quyết định “gây sốc” của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) hôm 28/7 vừa qua cho phép lợi suất trái phiếu Chính phủ Nhật Bản (JGB) tăng cao hơn mức trần trước đó từ 0,5 - 1%, khiến lợi suất tăng đột biến.

Phiên giao dịch hôm thứ Hai tuần này đã đánh dấu lần đầu tiên lợi suất tăng trên 0,6% trong gần một thập kỷ qua.

Sản xuất động cơ ô tô tại Nhật Bản. Ảnh: AFP
Sản xuất động cơ ô tô tại Nhật Bản. Ảnh: AFP

Trong khi đó, Chính phủ của Thủ tướng Fumio Kishida vẫn không ngừng chi tiêu. Nhà lãnh đạo Nhật Bản đã cam kết tăng chi tiêu quốc phòng lên 2% GDP vào năm 2027 từ mức khoảng 1% hiện nay, và tăng gấp đôi ngân sách chăm sóc trẻ em lên 3,5 nghìn tỷ yên (25 tỷ USD) hàng năm. Ông cũng đang lên kế hoạch phát hành 20 nghìn tỷ yên trái phiếu Chuyển đổi xanh (GX) trong thập kỷ tới.

Trong khi trái phiếu GX sẽ được hoàn trả thông qua thuế carbon và kế hoạch định giá carbon, Chính phủ ông Kishida vẫn chưa cho thấy nguồn nào có thể giải quyết được kế hoạch trang trải chi phí quốc phòng và nuôi dạy trẻ em.

Đối mặt với một xã hội “siêu già” như Nhật Bản lúc này, Chính phủ Tokyo dự kiến sẽ phải chi gần 1/4 GDP cho phúc lợi xã hội, như chăm sóc điều dưỡng và lương hưu, trong năm tài chính bắt đầu từ tháng 4/2040.

Để hiểu được mức độ mạo hiểm đến khó tin của Chính phủ Nhật Bản lúc này, hãy nhìn vào bài học của Vương quốc Anh năm 2022. Khi Chính phủ London tuyên bố giảm thuế hồi năm ngoái, điều này đã kiến đồng bảng Anh rớt giá thảm hại và đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ Anh lên mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009.

Đây cũng là nguyên nhân khiến Thủ tướng Anh Liz Truss phải từ chức chỉ sau 44 ngày tại vị.

Nikkei Asia dẫn lời ông Krisjanis Krustins, giám đốc xếp hạng khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại Fitch Ratings, bình luận: “Thật khó để tưởng tượng ra một cuộc khủng hoảng nợ có thể xảy ra ở Nhật Bản. Nhưng xếp hạng nợ ở mức A của nước này cũng có nghĩa là nó tiềm ẩn rủi ro”.

Theo giới phân tích, có nhiều yếu tố khác nhau đang làm giảm ngòi nổ của “quả bom nợ hẹn giờ” của Nhật Bản: các công ty nắm giữ lượng tiền mặt lớn và chưa vay nhiều; trái phiếu Chính phủ Nhật Bản có kỳ hạn trung bình tương đối dài và hầu hết được nắm giữ trong nước; đất nước có thặng dư tài khoản vãng lai lành mạnh…

Nhưng có lẽ yếu tố lớn nhất hỗ trợ tình hình nợ của Nhật Bản là điều mà Tohru Sasaki - người đứng đầu bộ phận nghiên cứu vĩ mô Nhật Bản tại Ngân hàng JPMorgan Chase - gọi là “một kiểu nghiện ngập” đối với các chính sách tiền tệ siêu nới lỏng của BoJ.

Dưới thời cựu Thống đốc Haruhiko Kuroda và sau đó được tiếp tục ở đời Thống đốc đương nhiệm Kazuo Ueda, BoJ đã định hướng lãi suất bằng 0 hoặc thậm chí âm. BOJ hiện nắm giữ khoảng một nửa số trái phiếu Chính phủ.

“Ngân hàng trung ương Nhật Bản không thể ngừng việc kiếm tiền từ nợ của Chính phủ” - chuyên gia Sasaki nói - “Quan điểm của tôi là điều này mang ý nghĩa bi quan”.

Nhật Bản dự kiến sẽ chi 22,1% ngân sách năm tài chính hiện tại cho việc trả lãi và mua lại nợ. Nhận thức được điều này và gánh nặng nợ ngày càng tăng, Bộ trưởng Tài chính Shunichi Suzuki hồi tháng 3 đã cảnh báo rằng “tài chính công của Nhật Bản đã gia tăng nghiêm trọng ở mức độ chưa từng có”.

Những rủi ro tiềm ẩn

Mặc dù Tokyo hiện có thể yên tâm rằng gánh nặng nợ nần của quốc gia sẽ không sớm gây ra thiệt hại kinh tế lớn, nhưng các nhà phân tích trong ngành vẫn chỉ ra nhiều mối nguy xoay quanh vấn đề này.

Shigeto Nagai, trưởng bộ phận kinh tế Nhật Bản tại Oxford Economics có trụ sở tại Anh, nhận định rằng một cú sốc tiềm ẩn có thể đến khi ngân hàng trung ương quay trở lại chính sách tiền tệ “bình thường” hơn nhưng không đúng lúc.

“Quá trình rời bỏ chương trình nới lỏng của BoJ sẽ mất nhiều năm, và nó cần một rào chắn bảo vệ. Nếu thực hiện kém, nó có thể gây ra hỗn loạn đối với JGB” - ông Nagai nói với Nikkei Asia.

Kazumasa Oguro, cựu quan chức Bộ Tài chính Nhật Bản, hiện là giáo sư kinh tế tại Đại học Hosei ở Tokyo, thì cho rằng BoJ đang giữ lãi suất dài hạn thông qua chương trình kiểm soát đường cong lợi suất, “nhưng khi không còn khả năng làm như vậy, đó là thời điểm mà vấn đề sẽ trở nên cực kỳ rõ nét”.

Ngoài ra, tăng trưởng thấp khi dân số Nhật Bản già đi và giảm sút cũng là một rủi ro lớn. Nếu không tăng năng suất đáng kể, dân số trong độ tuổi lao động nhỏ hơn sẽ khiến Nhật Bản rất khó duy trì hoặc thúc đẩy tăng trưởng - điều đang góp phần giảm tỷ lệ nợ trên GDP.

“Đối với Nhật Bản, yếu tố rủi ro xã hội lớn nhất là nhân khẩu học” - Christian de Guzman, nhà phân tích rủi ro có chủ quyền tại Moody, chuyên phụ trách vấn đề Nhật Bản - nêu quan điểm.

Lạm phát, mặc dù khiến nhiều người dân Nhật Bản gặp khó khăn do tăng trưởng tiền lương không theo kịp, nhưng mặt khác lại có thể là “liều thuốc chữa bách bệnh” cho tình trạng nợ nần.

Giá tiêu dùng đã tăng trở lại vào tháng 6 vừa qua, vượt mục tiêu 2% của BoJ trong tháng thứ 15 liên tiếp. Mặc dù lãi suất vẫn ở quanh mức 0, Nhật Bản hiện có tốc độ lạm phát nhanh hơn cả Mỹ - nơi Cục Dự trữ Liên bang hôm 26/7 đã tăng lãi suất lần thứ 11 trong 12 cuộc họp, đạt mức 5,25 - 5,50%.

Chuyên gia Krustins tại Fitch cho biết, nếu lạm phát bền vững xảy ra ở Nhật Bản, “điều đó sẽ có tác động tích cực đến GDP, mẫu số và tỷ lệ nợ trên GDP, đồng thời cũng có xu hướng tích cực đối với nguồn thu của Chính phủ”.

Nhưng đến một lúc nào đó, Nhật Bản được cho sẽ phải củng cố vị thế nợ và hạn chế chi tiêu ngay cả khi dân số ngày càng già đi. “Một sự củng cố tài chính đáng tin cậy, bao gồm chi tiêu liên quan đến tuổi già và huy động các khoản thu từ thuế được bảo đảm, nhằm đưa nợ vào xu hướng giảm và giảm thiểu rủi ro” - IMF khuyến cáo trong một báo cáo tham vấn về Nhật Bản hồi tháng 3.

Ranil Salgado, trưởng phái đoàn IMF tại Nhật Bản và là tác giả của báo cáo nói trên, cảnh báo rằng Tokyo phải đối mặt với sự lựa chọn giữa tăng thuế và cắt giảm chi tiêu. Ông tin, việc tăng thêm thuế - vốn không được ưa chuộng về mặt chính trị - đối với thuế suất tiêu dùng là giải pháp tốt nhất cho các nhu cầu chi tiêu quan trọng”.

Richard Koo, nhà kinh tế trưởng tại Viện nghiên cứu Nomura và là tác giả của cuốn sách “Suy thoái bảng cân đối kế toán: Cuộc đấu tranh của Nhật Bản” thì cho rằng, nhiệm vụ ngăn chặn khủng hoảng nợ cuối cùng có thể thuộc về BoJ, và liệu khu vực tư nhân của Nhật Bản có thể đổi mới để thúc đẩy tăng trưởng hay không là điều mà ngành kinh tế chưa có dữ liệu để khám phá, nhận định.