Nguồn cội lịch sử thấm đượm trong tòa thành cổ nhất Việt Nam

Bài, ảnh: Hồ Hạ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Kinhtedothi - Được vua Thục An Dương Vương xây dựng từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó), thành Cổ Lao (Đông Anh, Hà Nội) được coi là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam hiện nay.

 Dù chỉ cách trung tâm thủ đô không xa, nhưng khi đặt chân lên mảnh đất cố đô, bất cứ ai cũng có cảm giác thật sự khác lạ. Không gian thoáng đãng, không khí trong lành. Cổ Loa trước mắt như hiện thân cho hình ảnh của một làng quê Bắc bộ, với những bến nước sân đình, cây đa cổ thụ.
 Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.  Đây là thủ đô thứ hai của Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay), là thủ đô thời các vua Hùng.
 Theo các tài liệu khảo cổ học, xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải than bùn lớn, những cây cổ thụ... kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi qua Cầu Cả, Đại Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê.
 Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía bắc.
 Khác với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích có diện tích trải rộng trên một địa bản rộng lớn. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm chín vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học thấy thành có ba vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền.
 Chu vi vòng ngoài thành là 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao từ 4 m-5m, có chỗ cao 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu m3.
 Từ vòng trong - trung tâm của khu di tích Cổ Loa - tôi men theo các con đường làng để “xoáy” trở ra đến vòng ngoài. Trải qua hàng ngàn năm với những thắng trầm của lịch sử, với những sự thay đổi của thiên nhiên tạo hóa, những bờ tường kiên cố ngày xưa, nay chỉ còn những gò đất cao trung bình khoảng 2m, tuy nhiên theo lời các cụ bô lão trong làng thì muốn đi được hết được cả ba vòng tường thành phải mất gần nửa ngày trời.
 Cụm di tích Cổ Loa hiện nay thuộc vòng trong, bao gồm chủ yếu các đình, đền thờ, tiêu biểu như đền thờ Thục Phán An Dương Vương (đền Thượng), giếng Ngọc, am Bà Chúa và dinh Ngự triều di quy.
 Qua cổng làng, cũng là cổng thành trong, là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi “Ngự triều di quy”.
 Bên trong “Ngự triều di quy" còn có rất nhiều di tích khảo cổ niên đại hàng nghìn năm, đặc biệt là những mũi tên bằng đồng từ thời An Dương Vương. .
 Cạnh đình là am Bà Chúa - miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương với "trái tim lầm chỗ để lên đầu". Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
 Tượng bà chúa Mỵ Châu là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Huyền thoại kể rằng: sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.
 Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê Sơ. 
 Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. 
 Trước đền là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thủy tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần.
 Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.
 Qua cửa tam quan, bước vào trong đền những hàng cây xanh hai bên đền là một không gian thoáng đãng, trong lành khiến ai cũng cảm thấy tâm hồn sảng khoái, thanh thản. 
 Bước vào bên trong ngôi đền là một không gian khá rộng với lần lượt những ban thờ của các vị bá quan văn võ, tứ trụ triều đình, thần Kim Quy và bàn thờ của Thục Phán An Dương Vương. 

 Hằng năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ hội trang trọng để tưởng nhớ những người đã có công xây thành, nhất là để ghi ơn An Dương Vương, người khai sinh ra nhà nước phong kiến Âu Lạc.