Nhiệt điện than đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nguồn điện

Khắc Kiên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Để đảm bảo nhu cầu cung ứng điện cho sản xuất, sinh hoạt nhiều năm tới, nhiệt điện than vẫn được đánh giá quan trọng trong cơ cấu nguồn điện. Vậy cần hiểu sao cho đúng về nhiệt điện than? Liệu đây có phải nguồn điện gây ô nhiễm môi trường?

 Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng phát biểu tại hội thảo.
Đây là nội dung chính của Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về Nhà máy nhiệt điện than” do báo Lao Động và Bộ Công Thương tổ chức ngày 13/12, tại Hà Nội.
Thời gian qua, nhiều ý kiến lo ngại về ô nhiễm môi trường khi Việt Nam triển khai nhiệt điện than, thậm chí, một số địa phương có xu hướng “tẩy chay” loại nguồn phát điện này. Điện than vẫn là xương sống Việt Nam đang đồng loạt phát triển nhiều loại hình điện, như: điện gió, điện mặt trời, điện than và điện khí. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nhiệt điện than vẫn được xem là xương sống của ngành điện. Nhiều câu hỏi của các đại biểu đưa ra tại hội thảo: Tại sao nhiệt điện than vẫn được lựa chọn ưu tiên, bên cạnh các dạng năng lượng khác?
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than. Dự kiến giai đoạn 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện than là 26.000 MW. Tuy nhiên, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với công suất 7.860 MW, còn thiếu 18.000 MW theo yêu cầu.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó có việc đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng. Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7,0%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026 -2030 là 10,6%, 8,5% và 7,5%.
Theo Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển cần phát triển nguồn điện hài hòa nhất là trong bối cảnh các thuỷ điện vừa và lớn cơ bản đã khai thác hết, các nguồn điện khác còn hạn chế. Đơn cử như nguồn khí, hiện tổng công xuất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000 MW với sản lượng điện khoảng 63 tỷ kWh/năm. “Trong giai đoạn sắp tới, nhiệt điện than sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”, Thứ trưởng Cao Quốc Hưng khẳng định.
Báo cáo từ Cục Điện lực và năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cũng chỉ ra, nguồn thuỷ điện lớn và vừa cơ bản đã khai thác hết. Điện năng sản xuất từ thuỷ điện năm 2030 chỉ chiếm khoảng 12,4%. Điện hạt nhân đã được Quốc hội dừng thực hiện. Đối với nguồn điện nhập khẩu hiện nay Việt Nam đang phải nhập khẩu khoảng 1.000 MW từ Trung Quốc và Lào. Con số dự kiến sẽ tăng từ 3 đến 5 lần trong thời gian tới. Đối với nhiệt điện khí trong nước, trữ lượng các mỏ bắt đầu suy giảm, chi phí sản xuất điện cao do giá khí cao, sơ bộ giá điện khoảng 2.700-2.800 đ/kWh. Nguồn nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu phụ thuộc vào giá thị trường thế giới. Nguồn năng lượng tái tạo thì giá điện cao, vận hành không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết và cần có nguồn dự phòng. Trong khi đó, nguồn nhiệt điện than có giá hợp lý, có vai trò quan trọng trong việc cung ứng điện, lượng điện năng sản xuất năm 2030 của Nhiệt điện than chiếm trên 53% tổng sản lượng điện của hệ thống.