Với việc Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đua nhau kích hoạt các biện pháp trừng phạt chống lại Nga, buộc Moscow phải "vũ khí hóa" năng lượng để đáp trả. Đáng nói, nhiều quốc gia bị kéo vào nỗ lực gây áp lực tài chính của phương Tây, bất chấp quan điểm trung lập hay các mâu thuẫn lợi ích.
Chi phí ngày một tăng cao
Sau gần một năm, cuộc xung đột Ukraine đang phơi bày những chi phí khổng lồ, có xu hướng ngày một tăng lên. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ước tính rằng nền kinh tế thế giới vào năm 2023 sẽ thu hẹp hơn 2,8 nghìn tỷ USD so với ước tính vào tháng 12/2021, trước khi quân đội và xe tăng Nga vượt qua biên giới Ukraine. Mất mát này ước tính gấp khoảng 5 lần toàn bộ quy mô nền kinh tế trước chiến tranh của Ukraine.
Mặc dù Ukraine có dân số 45 triệu người nhưng sản lượng hằng năm của nền kinh tế nước này trước chiến tranh chỉ lớn hơn một chút so với bang New South Wales của Australia sau khi đã tính mức chênh lệch ngoại tệ. Thu nhập của Ukraine trước chiến tranh ngang bằng với thu nhập của Paraguay hoặc Fiji.
Một phân tích mới nhất về chi phí kinh tế, do Chính phủ Ukraine phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) và Ủy ban châu Âu (EC) thực hiện, đã ước tính rằng thiệt hại trực tiếp do chiến tranh vào khoảng 100 tỷ USD: Thiệt hại về nhà ở là 39 tỷ USD, cơ sở hạ tầng giao thông là 30 tỷ USD, thương mại và công nghiệp là 10 tỷ USD và năng lượng là 3 tỷ USD. Tuy nhiên, bản phân tích được đưa ra vào tháng 8/2022, trước khi Nga bắt đầu bắn phá dữ dội cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine kể từ tháng 10/2022.
Ngoài những thiệt hại trực tiếp, còn có những thiệt hại gián tiếp - bắt nguồn từ sản xuất nông nghiệp bị mất, ô nhiễm đất và di dời dân cư - ước tính lên tới hơn 250 tỷ USD. Chi phí tái xây dựng và khử nhiễm xạ hậu chiến ước tính lên tới 350 tỷ USD, với những nhu cầu cấp thiết nhất có thể tiêu tốn khoảng 105 tỷ USD.
Trong sự hỗ trợ đáng kể về ngân sách của phương Tây cho Ukraine không chỉ có các trang thiết bị quân sự phục vụ chiến đấu. Phân tích của Viện Kiel (Đức) thống kê rằng, hỗ trợ tài chính song phương cho Ukraine đạt 37 tỷ USD từ tháng 1 đến tháng 10, trong khi viện trợ nhân đạo đạt tổng cộng 15 tỷ USD và viện trợ quân sự là 40 tỷ USD. Trong đó hỗ trợ của Mỹ đã chiếm 44% ngân sách, 66% viện trợ nhân đạo và 71% viện trợ quân sự.
Tuy nhiên, khoảng trống ngân sách của Kiev vẫn là rất lớn. Doanh thu thuế của Ukraine đã giảm 27%, nhưng chi tiêu của nước này, bao gồm cả cho quân đội, đã tăng 40%. Chính phủ Kiev đã phát hành trái phiếu chiến tranh để giúp tài trợ cho quân đội của mình, nhưng họ cũng đã tìm kiếm nguồn tài trợ trực tiếp từ Ngân hàng Quốc gia Ukraine. Đến cuối tháng 6/2022, Ngân hàng Trung ương nước này đã hỗ trợ Chính phủ 7,7 tỷ USD. Và các khoản tài trợ trực tiếp này được cho đang góp phần vào mức lạm phát 30% ở Ukraine, khiến việc bán trái phiếu trở nên khó khăn hơn.
Ở bên kia chiến tuyến, chi phí cho chiến dịch đặc biệt của Nga được cho là nhỏ hơn đáng kể nếu làm các phép so sánh, cho thấy nỗ lực của Chính phủ Moscow trong việc tránh để chiến tranh ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của người dân Nga một cách tối đa. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nâng cấp ước tính về nền kinh tế Nga và hiện dự đoán mức giảm GDP trong năm nay chỉ là 3,4%, so với mức giảm ước tính 8,5% vào tháng 4/2022. IMF không đưa ra dự báo nào về Ukraine, nhưng các ước tính của nhiều tổ chức độc lập cho rằng Ukraine sẽ giảm từ 30 - 40% trong năm nay.
Tuy nhiên, cũng như với Ukraine, chi phí chiến tranh đối với Nga đang tăng lên do xung đột kéo dài và bước vào mùa Đông khắc nghiệt, cuối cùng sẽ không tránh khỏi những tác động lớn đến mức sống của người dân trong nước. Trong ngắn hạn, sẽ có những gánh nặng ngân sách trực tiếp với Điện Kremlin để hỗ trợ một hoạt động quân sự lớn, khi mà các biện pháp trừng phạt của phương Tây đang siết chặt cả xuất và nhập khẩu của Nga.
Khó lường những tác động từ các lệnh trừng phạt
Chính phủ Nga đầu tháng 11/2022 đã huy động được số trái phiếu trị giá tương đương 13,6 tỷ USD để giúp tài trợ cho nỗ lực quân sự. Các bản cập nhật của tình báo quốc phòng Vương quốc Anh lưu ý rằng, chi tiêu quốc phòng được tuyên bố của Nga cho năm 2023 đã tăng hơn 40%, tương đương 84 tỷ USD, so với ước tính được đưa ra vào năm 2021.
Tác động của các biện pháp trừng phạt của phương Tây cũng đang ảnh hưởng đến Nga theo những cách không ngờ tới. Chẳng hạn, việc thiếu vòng bi chịu tải nặng - tất cả đều được nhập khẩu từ Thụy Điển và Mỹ - đã buộc ngành đường sắt Nga phải tạm dừng hoạt động của 10.000 toa xe chở hàng. Công ty Vận tải Quốc gia Nga đã cảnh báo rằng đội tàu quốc gia gồm 200.000 toa xe đang gặp rủi ro, trong khi vận chuyển hàng hóa đường sắt là một dịch vụ kinh tế then chốt ở một đất nước rộng lớn như Nga.
Sản lượng xe cơ giới của Nga, vốn chỉ dưới 3 triệu chiếc vào năm 2021, đã giảm xuống chỉ còn 281.000 chiếc trong nửa đầu năm nay. Điện thoại di động, máy tính… đều khan hiếm hơn tại Nga. Việc hủy bỏ các hợp đồng thuê máy bay, bảo trì đã dẫn đến sự đổ vỡ của hàng không nội địa. Các dấu hiệu khác của áp lực kinh tế cũng được chỉ ra, bao gồm tỷ lệ phá sản tăng 33% và vay tiêu dùng giảm 40%.
Việc mất khả năng tiếp cận với công nghệ phương Tây sẽ có những tác động lâu dài. Ở cấp độ người tiêu dùng, người Nga đã mất quyền truy cập vào các nền tảng như Spotify, Airbnb, eBay, PayPal và một loạt các nhà cung cấp trò chơi. Samsung của Hàn Quốc và Công ty sản xuất chất bán dẫn Đài Loan TSMC đều đã ngừng cung cấp cho Nga. Về cơ bản, Nga đã mất quyền truy cập vào phần mềm quan trọng của phương Tây cho một loạt các hoạt động kinh doanh. Hợp tác nghiên cứu với các đối tác phương Tây cũng đã phải dừng lại.
Các quốc gia EU chính thức áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với dầu mỏ của Nga kể từ ngày 5/12, cấm cung cấp bảo hiểm và tài chính thương mại cho các tàu chở dầu của Nga trừ khi dầu được nhập ở mức dưới mức giá trần do EU quy định. Đã có những cảnh báo rằng kế hoạch này có thể phản tác dụng nếu Nga từ chối bán dầu theo các điều khoản này. Nga cũng đã cố gắng tận dụng sự phụ thuộc của châu Âu vào khí đốt của mình làm đòn bẩy, cắt giảm dòng chảy trước mùa Đông cao điểm. Nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho châu Âu hiện đã giảm xuống 20% so với mức trước chiến tranh.
Đối với thế giới nói chung, chi phí lớn nhất từ cuộc xung đột Ukraine đến từ giá năng lượng và ngũ cốc gia tăng, đặc biệt là việc chuyển giao tài sản trị giá 2.000 tỷ USD từ người tiêu dùng và DN sử dụng năng lượng sang các nhà sản xuất nhiên liệu hóa thạch. Những thay đổi này đã làm tăng thêm áp lực lạm phát vốn đã căng thẳng và góp phần làm tăng nhanh lãi suất vốn đang bóp nghẹt nền kinh tế toàn cầu.