Sự thật là các bà mẹ có thể và nên ăn cá trong khi mang bầu (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Cá chứa nhiều protein và giàu sắt. Phụ nữ khi mang bầu cần ít nhất 27mg sắt/ngày (khoảng 18 mg trước khi mang thai) để giúp phòng bệnh thiếu máu và 71g protein/ngày (khoảng 46g trước khi mang thai) để cung cấp cho sự phát triển của thai nhi và sự thay đổi về mặt cơ thể của người mẹ. Những phụ nữ sắp làm mẹ nên ăn đa dạng các loại thực phẩm bổ dưỡng, tuy nhiên việc mang thai có thể hạn chế sự dung nạp một số loại đồ ăn. Cá là một thực phẩm rất giàu giá trị dinh dưỡng và nên được thêm vào thực đơn của các bà bầu.
Do acid béo omega-3 có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển não bộ của trẻ, bác sĩ dinh dưỡng khuyến cáo những phụ nữ mang thai nên trao đổi với bác sỹ để lựa chọn giữa việc ăn cá hay sử dụng dầu thực vật thay thế trong trường hợp họ không thể dung nạp hải sản.Hãy tránh xa hải sản chứa nhiều methyl thủy ngân hay các chất độc khác khi mang thai. Methyl thủy ngân có thể làm tổn hại đến sự phát triển não bộ, thận và hệ thần kinh trung ương của phôi thai. Đây là một hóa chất độc hại có thể tích lũy với hàm lượng cao trong các loại cá biển. Chất này sẽ đi qua nhau thai và ảnh hưởng xấu đến thai nhi. Thủy ngân có thể tồn tại tự nhiên trong môi trường hoặc có mặt trong các chất thải công nghiệp. Trong không khí và nước, nó ở dạng methyl thủy ngân. Một số loại cá bị tích lũy nhiều thủy ngân hơn các loại khác, phụ thuộc vào thức ăn, môi trường sống, kích thước và tuổi thọ của loài cá đó.Dưới đây là danh sách các hải sản phụ nữ có thai nên và không nên ăn:Nên ăn từ 230 gram – 340 gram/tuần: Cá rô phi; cá tuyết; cá hồi; cua, tôm, cá mòi; cá ngừ đóng hộp; cá tra.Tránh ăn các loại sau: Cá mập; cá kiếm; cá thu vua; cá kình; các loại hải sản đông lạnh hun khói do nguy cơ nhiễm độc kim loại.Các loại cá đạt chất lượng phải có những đặc điểm sau: Mắt cá trong và sáng; cá còn nguyên vẹn; cá không có mùi ươn; thịt cá chắc khi ấn.