Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Những nguyên nhân gây đột tử

Bác sĩ Trần Quốc Khánh - Bệnh viện Việt Đức
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Đột tử là một trong những thách thức của người bệnh cũng như của y học. Theo thống kê của Hội tim mạch Hoa Kỳ, có 4 nhóm nguyên nhân chính gây nên đột tử cả trong lẫn ngoài bệnh viện.

Những nguyên nhân
Nguyên nhân tim mạch: Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đột tử. Mỗi năm có khoảng 326.000 bệnh nhân bị ngưng tim tại Mỹ và chỉ có tầm 10,8% sống sót, trong đó nam giới chiếm phần đa. Còn với nhồi máu cơ tim, chỉ tính tại nước Mỹ, cứ mỗi 43 giây lại có 1 người bị, trong đó khoảng 1/5 các trường hợp không có triệu chứng lâm sàng. Rộng lớn hơn, theo dữ liệu y tế được tổng hợp từ hơn 190 quốc gia cho thấy bệnh tim vẫn là nguyên nhân gây tử vong số 1 trên toàn cầu với 17,3 triệu ca tử vong mỗi năm và dự kiến con số này sẽ tăng lên hơn 23,6 triệu vào năm 2030.
Nguyên nhân gây ngừng tim thường do bệnh cơ tim phì đại (bệnh có yếu tố di truyền và đây là nguyên nhân hay gặp nhất), bất thường động mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, hội chứng Brugada…
 Ảnh minh họa.
Có một tổn thương ngừng tim hay xảy đến với các vận động viên thể thao lúc đang thi đấu và các huấn luyện viên, được y học gọi là Commotio Cordis. Đó là hiện tượng một vật tác động thẳng trực tiếp và đột ngột vào thành ngực xảy đến trong thì tái cực của tim dẫn đến rung thất và ngừng tim. Tổn thương gặp hầu hết nam giới tuổi thiếu niên, hiếm gặp với người trên 20 tuổi. 
Đột quỵ: Đây là nhóm nguyên nhân thứ hai dẫn đến cái chết đột ngột nhưng lại thường bỏ qua. Có 2 loại đột quỵ: Do nghẽn mạch máu não hoặc do vỡ mạch máu não. Đột quỵ nghẽn mạch chiếm phần lớn (80%), thường liên quan đến bệnh tim mạch và mỡ máu cao trong khi đột quỵ vỡ mạch máu thường do cao huyết áp không được kiểm soát và uống nhiều rượu.
Tai biến mạch não thường gặp ở người trên 60 tuổi, nam nhiều hơn nữ nhưng nếu xảy đến ở nữ, tiên lượng nặng nề hơn.
Do cục máu đông làm tắc mạch phổi: Cục máu đông xuất hiện ở động mạch phổi làm tắc hệ thống mạch máu vào - ra phổi trao đổi khí dẫn đến cơ thể thiếu oxy đột ngột và tử vong. Hằng năm có khoảng 60.000 - 100.000 người tử vong do tắc mạch phổi, trong đó đáng sợ hơn cả là có đến 25% người chết bất thình lình với hai triệu chứng thường gặp là khó thở và đau ngực.
Vỡ động mạch chủ: Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể, bao gồm 1 đoạn chạy trong ngực và 1 đoạn chạy trong bụng, có nhiệm vụ như dòng kênh lớn nhất giúp lưu chuyển máu đi khắp cơ thể. Vì một lý do nào đó (tuổi già, bệnh mạn tính, nhiễm trùng, cao huyết áp…) làm thành mạch yếu đi, phình ra, gây nên phình động mạch chủ. Một trong số đó vỡ sẽ gây nên bệnh cảnh vỡ động mạch chủ, bệnh nhân mất máu rất nhanh và ồ ạt, 90% tử vong trong tích tắc. Đây là tối cấp cứu trong ngoại khoa, tuy nhiên hầu hết mọi người ít nghĩ đến trong cuộc sống hằng ngày.
Cách dự phòng đột tử
Với đột tử do ngừng tim, việc sàng lọc và kiểm soát những người có nguy cơ bị ngừng tim cũng vô cùng khó khăn và chưa hiệu quả. Vậy nên, dự phòng bằng cách giải quyết các yếu tố nguy cơ chính là chìa khóa của vấn đề.
Những rủi ro ngưng tim bao gồm người hút thuốc lá, dùng thuốc an thần lâu dài, bệnh tăng mỡ máu, bệnh cao huyết áp, và một số bệnh lý khác như ung thư hoặc bệnh tự miễn. Tiền sử gia đình có người thân (cha mẹ, con cái, anh chị em) từng bị ngừng tim hoặc tai biến mạch não thì nên đến gặp bác sĩ để được khám và tư vấn kịp thời.
Với tai biến mạch não, vỡ động mạch chủ, những yếu tố dự phòng hàng đầu bao gồm: Kiểm soát huyết áp, tiểu đường, không thuốc lá và hạn chế rượu. Điều trị tốt bệnh lý tim như rung nhĩ, suy tim, bệnh mạch vành và chủ động khảo sát mạch máu não. Hạn chế lạm dụng thuốc ngừa thai, thuốc điều chỉnh hooc-môn sinh dục, thuốc giảm đau không kê đơn, tránh lối ăn nhiều dầu mỡ, chiên rán và những thức ăn nhanh.
Người chơi thể thao hoặc trong cuộc sống hằng ngày thỉnh thoảng có đau ngực trái, tức ngực, hồi hộp đánh trống ngực, xỉu… hoặc tất cả mọi người trên 65 tuổi nên chủ động đi khám tim mạch hằng năm.
Thể thao đều đặn cũng là một yếu tố giúp trái tim và thành mạch thêm “dẻo dai” và đàn hồi, đồng thời làm giảm lượng mỡ máu, mảng cholesterol thừa bám trong thành mạch. Hết sức lưu ý với những ai đã từng có tiền sử chấn thương ngực, bụng, nhiễm trùng, phẫu thuật tim, lịch sử gia đình và di truyền… vì đây là những đối tượng có nguy cơ cao bị phồng lóc và vỡ động mạch chủ.
Với thuyên tắc mạch phổi, những lưu ý dự phòng chính bao gồm: Các phẫu thuật vùng bụng, xương chậu, thay khớp gối, khớp háng và gãy xương lớn như xương đùi… luôn có nguy cơ cao của thuyên tắc mạch phổi, đột tử.
Ngoài ra, một số bệnh ung thư có tác dụng làm quánh máu làm tăng nguy cơ hình thành máu cục lang thang trong lòng mạch. Bên cạnh đó, mang thai và sinh con, có nguy cơ thuyên tắc phổi cao hơn cả trong và ngay sau khi sinh con, đặc biệt đối với những người sinh mổ.
Vậy nên, về phía nhân viên y tế, ngoài việc khám xét bệnh nhân cẩn thận, thực hành điều trị đúng phác đồ và chuyên môn thì việc gặp gỡ gia đình và bệnh nhân trước mổ để giải thích tình trạng bệnh, các nguy cơ của điều trị và phẫu thuật, những rủi ro có thể xảy đến với bệnh nhân (cả khách quan và chủ quan) là điều cần thiết.
Về phía bệnh nhân, người nhà cũng cần hiểu rằng, dù nhân viên y tế có chuyên môn cũng như thực hành mổ xẻ cẩn thận đến đâu, thì những tai biến, biến chứng vẫn luôn có thể xảy đến, trong đó có những ca tử vong rất đột ngột đến từ những nguyên nhân trên.