Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Phòng, chống tra tấn: Các quy định của pháp luật Việt Nam

Phương Nguyên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ngày 7/11/2013, Việt Nam đã ký tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (gọi tắt là Công ước chống tra tấn). Ngày 28/11/2014, Quốc hội đã phê chuẩn Công ước về chống tra tấn.

Việc tham gia Công ước chống tra tấn là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, nâng cao đáng kể uy tín quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền và tạo ra những động lực, cơ sở mới để thúc đẩy hoạt động phòng, chống tra tấn ở nước ta hiện nay.

Ảnh minh họa

Thực hiện quy định tại Điều 19 của Công ước, Việt Nam báo cáo kết quả năm đầu tiên (2015-2016) triển khai thực hiện công ước, năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Báo cáo quốc gia lần thứ nhất của Việt Nam về thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

Báo cáo này đã được gửi đến Ủy ban chống tra tấn của Liên hợp quốc để Ủy ban xem xét và đăng công khai lên website của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc. Đây là Báo cáo quốc gia về thực thi một trong chín Công ước cốt lõi, cơ bản của Liên hợp quốc, có nội dung quan trọng, liên quan trực tiếp đến công tác Công an, thể hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước ta trong chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật để phù hợp với các quy định của Công ước chống tra tấn, ngày 12/1/2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tuyên truyền, phổ biến trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về nội dung Công ước chống tra tấn và pháp luật Việt Nam về chống tra tấn.

Việc thực hiện Đề án nêu trên là cần thiết nhằm bảo đảm cho Việt Nam thực hiện tốt hơn vai trò là quốc gia thành viên, thể hiện sự tôn trọng, bảo vệ, nghiêm chỉnh thực hiện các nội dung của Công ước chống tra tấn, khẳng định rõ ràng cam kết có trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện cho các thành viên trong xã hội tham gia bảo vệ, thúc đẩy quyền con người theo quy định của Công ước.

Trước khi tham gia Công ước chống tra tấn, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, pháp luật Việt Nam đã quy định tương đối cơ bản và đầy đủ cơ chế bảo đảm quyền không bị tra tấn, đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc bị hạ nhục.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, trong hoàn cảnh ‘thù trong, giặc ngoài’ đe dọa và chưa có Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một số sắc lệnh mà nội dung bao hàm những bảo đảm về quyền con người trong hoạt động tố tụng, trong đó có tác dụng phòng, chống tra tấn.

Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên xác định một nguyên tắc về chống hành động tùy tiện trong hoạt động tố tụng ở Việt Nam. Theo đó, tư pháp không quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không được ai xâm phạm một cách trái pháp luật (Điều 11). Mặc dù quy định này không đề cập cụ thể đến vấn đề tra tấn nhưng có ý nghĩa rất quan trọng để bảo vệ người dân trước những vi phạm nhân quyền trong hoạt động tư pháp, bao gồm các hành vi tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục.

Nguyên tắc hiến định kể trên tiếp tục được các Hiến pháp về sau kế thừa và phát triển thành nguyên tắc đầy đủ về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự và nhân phẩm của công dân mà được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong hoạt động tố tụng (các Điều 27, 28 Hiến pháp 1959; Điều 69, 70, 71 Hiến pháp 1980, Điều 71 Hiến pháp 1992).

Cụ thể, Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.

Hiến pháp 2013 lần đầu tiên đề cập cụ thể đến việc cấm tra tấn. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

Trong khuôn khổ pháp luật hiện hành liên quan đến phòng, chống tra tấn của Việt Nam có thể tóm tắt như sau:

Các quy tắc hiến định về quyền an ninh cá nhân, trong đó bao gồm quy định cấm tra tấn, được nêu trong các Điều 20 và 31 của Hiến pháp 2013.

Các quy định về bảo vệ quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự 2015, bao gồm quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 33), quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34); quyền bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 38).

Các quy định về một số tội phạm trong các Chương XII - xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người), Chương XIII - xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân), Chương XXII - xâm phạm hoạt động tư pháp), Chương XXIII - xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), bao gồm: Tội giết người (Điều 123), tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127), tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 129), tội bức tử (Điều 130), tội đe dọa giết người (Điều 133), tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137), tội hành hạ người khác (Điều 140); tội làm nhục người khác (Điều 155); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157); tội dùng nhục hình (Điều 373), tội bức cung (Điều 374); tội làm nhục đồng đội (Điều 397), tội hành hung đồng đội (Điều 398), tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 420)…

Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017) đã sửa đổi tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội dùng nhục hình, tội bức cung theo hướng tăng nặng nhằm đảm bảo yêu cầu về phòng, chống tra tấn, cụ thể đã:

Bổ sung tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” vào tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điểm b Khoản 3 Điều 157, mức hình phạt từ năm năm tù đến 12 năm tù).

Bổ sung hành vi “Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào” vào tội dùng nhục hình (Điều 373). Điều luật cũng quy định nếu người phạm tội làm nạn nhân tự sát thì bị phạt tù từ 7 năm đến 12 năm (khoản 3); làm người bị nhục hình chết thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 4).

Bổ sung tình tiết tăng nặng định khung vào tội Bức cung (Điều 374). Trường hợp “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, hỏi cung” sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm (khoản 2); phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Làm người bị bức cung chết; dẫn đến làm oan người vô tội; dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 4).

Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật khác cũng đề cập đến vấn đề phòng, chống tra tấn, như:

Các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có tác dụng phòng những hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, bao gồm: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 8), bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 10), bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân (Điều 11) và những quy định về các quyền tố tụng của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, người bị tạm giam và người bào chữa.

Các quy định trong Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 về nguyên tắc tạm giữ, tạm giam (khoản 3 Điều 4), các hành vi bị nghiêm cấm tra tấn, truy bức, dùng nhục hình... (khoản 1 Điều 8).

Các quy định trong Luật về thi hành án hình sự năm 2010 nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân, trong đó đề cập đến các vấn đề như chế độ giam giữ, sinh hoạt, lao động, học tập…, thanh tra, giám sát, khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự. Những quy định này đã được cụ thể hóa trong một số văn bản dưới luật, trong đó tiêu biểu là Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân…

Các quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nhằm bảo vệ quyền của những người bị tước tự do khi bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc biện pháp xử lý hành chính (bao gồm người bị tạm giữ hành chính, người bị đưa vào trường giáo dưỡng, người bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc). Những quy định này đã được cụ thể hóa trong Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 02/2014/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc và một số văn bản khác liên quan.

Ngoài những quy định kể trên, pháp luật Việt Nam cũng đã quy định vấn đề bồi thường cho những nạn nhân bị oan sai trong hoạt động tố tụng. Trước đây, Điều 72 Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.

Quy định này được tái khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013, theo đó, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự; đồng thời những người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

Vấn đề bồi thường oan sai trong tố tụng hình sự cũng được đề cập trong Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và cụ thể hóa trong Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.