Mọi ngóc ngách trong thành phố đều có hàng ăn, hàng quà vặt. Ngạc nhiên thay, Hà Nội cũng từng là nơi như thế từ thập kỷ 60 thế kỷ trước và trước đó nữa rồi.
Lũ trẻ Hà Nội những năm 60 của thế kỷ trước sống với thiên đường quà vặt của mình ở ngay cổng các ngôi trường phổ thông. Ông bán kẹo bông mang cái bàn quay ra đứng bệ vệ ngay cổng trường. Trên vai thể nào cũng vắt chiếc khăn mặt bông trắng tinh để thỉnh thoảng chấm chút mồ hôi trên mặt. Tay làm, miệng nói không ngớt.
Trẻ con xúm xít vòng quanh, trong tay đứa nào cũng có đồng 5 xu chờ đến lượt. Những chiếc kẹo bông quấn vào que tre trắng muốt to tướng nhưng thực ra nguyên liệu làm ra nó chỉ chừng một thìa cà phê đường trắng. Chúng chậm chạp nhấm nháp ngon lành.
Quà vặt của người lớn trên phố phần lớn có mặt trong các hàng nước chè chén 5 xu. Món nước chè chén không ngờ lại là món hàng giữ giá lâu nhất trong toàn bộ ngành thương nghiệp. Mãi cho đến tận những năm 90 thế kỷ trước giá của nó vẫn chỉ là 5 xu. Một chén quả hồng vơi chè búp Thái
Nguyên pha vào ấm tích rót ra được chừng hơn chục chén. Hàng nước trong phố phổ biến phải có lọ kẹo lạc, kẹo vừng. Lọ đựng thuốc lá quấn bằng giấy con gà đóng chục điếu một bó. Lọ lạc rang cho khách uống rượu có chiếc chén hạt mít bên trong dùng làm đơn vị đo lường. Hộp kính đựng thuốc lá bao các loại và thuốc lào đóng gói.
Bánh trái, hoa quả tiện gì bán nấy mua của người bán rong. Hàng nước bến xe, bến tàu sẽ có thêm vài quả trứng luộc, dăm chiếc bánh chưng con cho khách ở xa lỡ độ đường. Và hầu như không hàng nước nào thiếu chiếc cóng đựng bánh rán mật. Đó chính là chiếc cóng trẻ con ở phố vẫn nuôi cá vàng.
Bánh rán mật chẳng hiểu sao có sức quyến rũ đến lạ kỳ. Người lớn trẻ con đều thích cả. Vào bất cứ lúc nào. Đàn ông đàn bà thanh lịch com lê áo dài đã vào hàng nước thể nào cũng nhón tay lấy chiếc bánh rán mật. Đúng như tục ngữ có câu đúc kết “Đẹp vàng son, ngon mật mỡ” hình như có độ liên tưởng không hề nhẹ với món bánh rán mật
. Chẳng đói chẳng no gì chiếc bánh rán bé tẹo nhưng cái vỏ mật ngọt hanh mùi mía ròn tinh trong miệng cộng với hương thơm mát của nhân đậu xanh và vỏ bánh bột nếp là thứ quyến rũ rất khó cưỡng. Hà Nội bây giờ dù rằng còn tồn tại rất ít hàng nước chè nhưng bánh rán mật vẫn có mặt trên những chiếc xe đạp bán rong khắp phố phường.
5 giờ sáng hàng ngày vẫn có hàng đoàn người bán rong đến các lò rán bánh ở vùng Kim Mã, Giang Văn Minh lấy hàng mang đi bán. Có người rao bằng loa pin có người không. Nhưng bánh rán mật của họ vẫn là món đắt hàng nhất trong các loại quà vặt bây giờ.
Thời chiến tranh bao cấp thiếu thốn mọi bề. Chiếc kẹo lạc, kẹo vừng ở hàng nước chính là nơi bổ sung chất đường cho cơ thể. Nhiều cán bộ sáng đi làm chỉ ghé vào hàng nước uống chén nước chè, hút dăm điếu thuốc lào và ăn chiếc kẹo lạc là vững bụng đi đến cơ quan. Những người có đủ tiền ăn sáng bằng xôi xéo, xôi ngô, xôi lạc đầu phố không nhiều.
Người lớn nhịn thèm nhưng trẻ con dứt khoát phải có. Những phở, những bún, mì vằn thắn, cháo tim gan thời kỳ này đã là những bữa ăn chính sang trọng. Nó không còn là quà vặt bữa lỡ nữa. Chính vì thế nên người bán hàng đã bắt đầu sắm những chiếc bát có dung tích lớn hơn.
Chiếc bát chiết yêu rộng miệng thót chân vắng bóng dần cho đến lúc hết hẳn. Vài người mở hàng bán bún ốc nguội giờ đây tìm được chiếc bát chiết yêu quả là rất khó. Bún ốc nguội vẫn chỉ là quà vặt mà thôi. Chẳng ai Hà Nội lại đi ăn no món ấy.