Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) có bố cục gồm 8 Chương, 96 Điều quy định về đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình tự và thủ tục thi đua, khen thưởng. Luật áp dụng đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình người Việt Nam; cá nhân, tập thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài;cá nhân, tập thể người nước ngoài.
Để đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong công tác thi đua, khen thưởng, Luật quy định việc thi đua được thực hiện trên các nguyên tắc: Tự nguyện, tự giác, công khai, minh bạch; đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển. Bên cạnh đó, việc khen thưởng được thực hiện trên các nguyên tắc sau đây: Chính xác, công khai, minh bạch, công bằng, kịp thời; bảo đảm thống nhất giữa hình thức, đối tượng khen thưởng và công trạng, thành tích đạt được.
Luật nêu rõ, một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng; không khen thưởng nhiều lần, nhiều hình thức cho một thành tích đạt được; thành tích đến đâu khen thưởng đến đó; chú trọng khen thưởng cá nhân, tập thể, hộ gia đình trực tiếp lao động, sản xuất, kinh doanh; cá nhân, tập thể công tác ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bảo đảm bình đẳng giới trong thi đua, khen thưởng.
Các loại hình khen thưởng theo Luật quy định gồm có: Khen thưởng công trạng là khen thưởng cho cá nhân, tập thể thường xuyên có thành tích xuất sắc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khen thưởng đột xuất là khen thưởng kịp thời cho cá nhân, tập thể, hộ gia đình lập được thành tích xuất sắc đột xuất; khen thưởng phong trào thi đua là khen thưởng cho cá nhân, tập thể, hộ gia đình có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua do cấp có thẩm quyền phát động, chỉ đạo trong thời gian cụ thể hoặc thi đua theo chuyên đề phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước…
Ngoài các hình thức khen thưởng được quy định tại Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), Luật cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể thực hiện các hình thức động viên đối với cá nhân, tập thể có thành tích để kịp thời nêu gương trong lao động, sản xuất, công tác và động viên phong trào thi đua, phù hợp với các nguyên tắc do Luật này quy định.
Để đảm bảo tính khả thi, Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác thi đua, khen thưởng.
Trước đó, trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, về danh hiệu vinh dự nhà nước “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” (Điều 66), đa số đại biểu Quốc hội đồng ý với Phương án 1 bổ sung đối tượng xét tặng danh hiệu vinh dự nhà nước “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”. Trong đó một số đại biểu đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết về đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng bảo đảm không bỏ sót đối tượng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc rà soát để tiếp tục bổ sung người sáng tạo tác phẩm văn hóa, nghệ thuật thuộc đối tượng được xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” là cần thiết, bảo đảm nguyên tắc “công bằng” trong khen thưởng. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, trong thời gian ngắn chưa thể đánh giá tác động kỹ lưỡng, đầy đủ. Do đó, sau khi lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với Chính phủ, Cơ quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan, tổ chức liên quan chỉ quy định trong Luật những vấn đề đã chín, đã kỹ, đã rõ nên đã chỉ đạo thiết kế khoản 1 Điều 66 gồm 2 điểm: Điểm a kế thừa quy định các đối tượng của luật hiện hành đang được thực hiện ổn định và điểm b quy định nhóm đối tượng mới được bổ sung và giao Chính phủ quy định, như sau: “b) Người sáng tạo tác phẩm văn hóa nghệ thuật không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản này do Chính phủ quy định”. Trên cơ sở tiêu chuẩn khung chung quy định tại khoản 2, khoản 3, Chính phủ sẽ quy định tiêu chuẩn chi tiết phù hợp với các đối tượng cụ thể.
Về hình thức khen thưởng kháng chiến “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” (Điều 96), Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội hình thức khen thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” là hình thức khen thưởng dành cho lực lượng thanh niên xung phong tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, cần được quy định tương quan với hình thức Huy chương Chiến sĩ vẻ vang để tặng cho lực lượng vũ trang Nhân dân. Hơn nữa, các văn bản đề xuất của Hội cựu thanh niên xung phong Việt Nam gửi các cơ quan có thẩm quyền thể hiện nguyện vọng khen thưởng đồng loạt một hạng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho thanh niên xung phong có thời gian tại ngũ 2 năm trở lên. Vì vậy, để đề cao ý nghĩa của hình thức khen thưởng nhà nước, trên cơ sở kết quả nghiên cứu, rà soát các quy định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với Chính phủ xin phép Quốc hội cho giữ tiêu chuẩn như quy định tại khoản 2 Điều 96 của Dự thảo Luật (sau khi đã tiếp thu ý kiến đại biểu, bỏ từ “liên tục”).