Trong Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), quy định về tài chính ngân sách chủ yếu tại Điều 35 “Huy động nguồn lực tài chính, ngân sách cho phát triển Thủ đô” và Điều 36 “Sử dụng nguồn lực tài chính, ngân sách cho phát triển Thủ đô”. Đồng thời, tại các điều khoản khác của dự thảo Luật cũng thể hiện việc sử dụng ngân sách các cấp của Thành phố để chi những khoản chi đặc thù, cao hơn hoặc ngoài quy định đã có của Trung ương ở các lĩnh vực như: văn hóa, giáo dục đào tạo, y tế, an sinh xã hội, khoa học và công nghệ, nông nghiệp nông thôn, hỗ trợ việc cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị…; chi tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức.
“Huy động nguồn lực tài chính, ngân sách cho phát triển Thủ đô”
Quy định tại Điều 35 được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Thủ đô năm 2012 và Nghị định số 63/2017/NĐ-CP (về thưởng vượt thu), các cơ chế chính sách thí điểm về tài chính -ngân sách theo Nghị quyết số 115/2020/QH14 của Quốc hội (tương tự với các Nghị quyết thí điểm đối với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Cần Thơ, Đà Nẵng); như việc: được quyết định áp dụng trên địa bàn một số loại phí, lệ phí chưa được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; điều chỉnh mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định (cấp trên).
Đồng thời, có 2 nội dung quy định tại điều này đã có sự điều chỉnh, bổ sung mới so với các cơ chế thí điểm về tài chính, ngân sách đang được áp dụng ở Thủ đô.
Cụ thể: Về mức vay nợ và bội chi ngân sách (khoản 4 Điều 35): có 3 nội dung chính: (1) Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong nước và từ nguồn trái phiếu Chính phủ phát hành không phụ thuộc vào hạn mức trần; (2) Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ liên quan đến khoản vay lại; (3) Tổng mức vay và bội chi ngân sách thành phố Hà Nội hằng năm do Quốc hội quyết định.
Quy định này nhằm cho phép Hà Nội được vay nợ không có hạn mức trần, có thể cao hơn so với Luật Ngân sách (60%) và Nghị quyết số 115 của Quốc hội (không quá 90% số thu ngân sách Thành phố được hưởng theo phân cấp. Nhưng việc kiểm soát mức dư nợ do Quốc hội quyết định và phải nằm trong khả năng trả nợ của Thành phố (do HĐND Thành phố quyết định mức vay). Như vậy, quy định này giúp Hà Nội có cơ chế huy động nguồn vốn vay linh hoạt, chủ động hơn, tập trung hơn, huy động nguồn lực tài chính đủ lớn để triển khai những nhiệm vụ chiến lược, trọng điểm trong từng thời kỳ .
Về tiền thu từ đất (khoản 5 Điều 35): Quy định này xác định: (1) Ngân sách Hà Nội được giữ lại tối đa các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất thuộc thẩm quyền quản lý của Thành phố. (2) Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định tỷ lệ điều tiết cụ thể phù hợp với mục tiêu sử dụng nguồn vốn trên cơ sở đề xuất của thành phố Hà Nội.
Hiện nay, theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, các địa phương đang được giữ lại 100% các khoản thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất. Tuy nhiên trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Luật Ngân sách nhà nước sẽ được sửa đổi và quy định tỷ lệ điều tiết, phân chia khoản thu này giữa trung ương và địa phương. Như vậy, quy định này nhằm ưu đãi, cho phép Thành phố được giữ lại “tối đa” các khoản thu từ đất, trên cơ sở hằng năm, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét quyết định tỷ lệ điều tiết cụ thể (có thể cao hơn tỷ lệ theo quy định của Luật Ngân sách) nhằm giúp Hà Nội có thêm nguồn lực để phục vụ nhiệm vụ trọng điểm, cụ thể do Thành phố đề xuất; trong đó có cả việc chi cho di dời, hỗ trợ di dời các cơ quan, đơn vị, cơ sở của Trung ương và Thành phố theo quy hoạch.
Có ý kiến của lãnh đạo Quốc hội và một số cơ quan, đơn vị đề nghị cân nhắc việc quy định “được giữ lại tối đa” là chưa rõ, chưa xác định được khoản giữ lại cho ngân sách Thành phố là bao nhiêu để có căn cứ thực hiện. Quy định này sẽ rất khó có hiệu lực khi Luật Ngân sách nhà nước được sửa đổi quy định về nội dung này. Đồng thời, việc giao Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định tỷ lệ điều tiết cụ thể là cần xem xét lại sự phù hợp về thẩm quyền quyết định liên quan đến phân bổ ngân sách.
Chính vì vậy, đối với quy định này, đề nghị Quốc hội xem xét theo hướng: xác định tỷ lệ điều tiết cụ thể, cao hơn dự kiến của Luật Ngân sách nhằm tạo nguồn lực cho Thành phố; đồng thời, trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể quyết định về tỷ lệ điều tiết cao hơn cho Thủ đô trong 1 giai đoạn nhất định gắn với việc thực hiện nhiệm vụ trọng điểm, hoặc nhiệm vụ do Trung ương giao.
“Sử dụng nguồn lực tài chính, ngân sách cho phát triển Thủ đô”
Đối với Điều 36 “Sử dụng nguồn lực tài chính, ngân sách cho phát triển Thủ đô” được xây dựng nhằm tạo thể chế thông thoáng, thuận lợi cho Hà Nội được linh hoạt, chủ động trong việc bố trí, sử dụng ngân sách để phục vụ cho đầu tư phát triển; khắc phục những vướng mắc của Luật Ngân sách, Luật Đầu tư công hiện hành.
Điều 36 gồm các quy định được kế thừa từ Nghị quyết số 115/2020/QH14 (như: việc sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để chi đầu tư phát triển; sử dụng nguồn chi thường xuyên để cải tạo cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng mới các hạng mục trong các cơ sở, công trình tài sản công đã có); đồng thời thể chế hóa các Nghị quyết của Trung ương , Điều 36 có quy định cho phép: Sử dụng ngân sách thành phố Hà Nội để thực hiện dự án đầu tư, công trình, dự án trọng điểm có tính chất vùng, liên tỉnh nằm trên ranh giới, địa giới hành chính giữa Thủ đô và địa phương khác.
Ngoài ra, tại Điều 36 còn có những quy định mới, đặc thù nhằm khắc phục những vướng mắc hiện nay của Thành phố. Trong đó, quyết định nguồn vốn ngân sách để lập các loại quy hoạch: quy định này giúp Hà Nội chủ động quyết định nguồn vốn đầu tư công hoặc nguồn vốn sự nghiệp để lập các quy hoạch, do hiện nay, theo quy định của Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị và Luật Xây dựng chưa có quy định thống nhất về nguồn vốn lập quy hoạch. Thực tiễn việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công để lập quy hoạch cũng có những khó khăn nhất định trong việc bố trí vốn và quá trình triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, Hà Nội được quy định chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách mới hoặc cao hơn của trung ương để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách Thành phố mà ngân sách Trung ương không hỗ trợ.
Quy định này nhằm giúp Hà Nội có thể chủ động trong việc quy định chế độ, định mức chi ngân sách phù hợp với tình hình thực tiễn, hợp lý, bảo đảm cho việc triển khai nhiệm vụ hiệu quả hơn. Theo quy định hiện hành, nhiều chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do Trung ương ban hành khung hoặc mức chi cụ thể để áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội nhanh, giá cả tiêu dùng có những biến động theo thị trường của từng địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn, một số định mức, chế độ chi ngân sách không còn phù hợp. Do đó, việc giao thẩm quyền này cho Thủ đô là rất cần thiết nhằm xây dựng những chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách thành phố Hà Nội mà ngân sách trung ương không hỗ trợ.
Đây là quy định phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phân quyền, phân cấp, tăng tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương trong việc sử dụng ngân sách. Việc cho phép Thủ đô được ban hành chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đẩy nhanh quá trình tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập của Thành phố.
Phân cấp, ủy quyền gắn với chế độ trách nhiệm
Báo cáo thẩm tra Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) về các chính sách tài chính, ngân sách và huy động nguồn lực phát triển Thủ đô (Chương IV), Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và các cơ quan tham gia thẩm tra cơ bản tán thành với các chính sách này trong dự thảo Luật.
Để bảo đảm tính khả thi, Ủy ban Pháp luật đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, đối với mỗi chính sách cần xác định rõ nội dung, phạm vi, đối tượng phân quyền và cơ chế phân cấp, ủy quyền tiếp gắn với chế độ trách nhiệm; xác định cụ thể tiêu chuẩn, tiêu chí và lượng hóa tối đa các chính sách đặc thù áp dụng cho Thủ đô, hạn chế những quy định không rõ quy phạm.
Bên cạnh đó, xác định rõ các trường hợp phân quyền toàn bộ; các thẩm quyền không được phân cấp, ủy quyền tiếp; các thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục chung hoặc theo trình tự, thủ tục do chính quyền Thành phố quy định; đối với những nội dung giao UBND quyết định thì nên giao HĐND ban hành quy định về trình tự, thủ tục thực hiện thẩm quyền đó.