Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Sự ảnh hưởng sâu đậm đến ý thức xã hội

Minh An
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - 100 năm trước, khoa thi Tiến sĩ cuối cùng diễn ra, đánh dấu sự kết thúc của nền khoa cử Nho học Việt Nam kéo dài suốt 844 năm (1075 - 1919). Tuy nhiên, trên thực tế, ảnh hưởng của nền Khoa cử truyền thống ấy vẫn còn sâu đậm trong ý thức xã hội Việt Nam sau này.

Trong hơn 800 năm tồn tại, khoa cử Nho học Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò trong việc đào tạo đội ngũ trí thức quan lại Nho học, có đóng góp to lớn trong suốt tiến trình lịch sử trung đại Việt Nam.
Đã có gần 3.000 nhà khoa bảng được tuyển chọn từ các kỳ thi cấp quốc gia. Nền khoa cử cũng để lại một hệ thống văn miếu, văn bia, văn từ, văn chỉ… phong phú, đa dạng và đặc sắc từ T.Ư đến các thôn, xã. Giáo dục khoa cử tạo nên những “gia đình khoa bảng”, “dòng họ khoa bảng” với đặc điểm nổi bật là có nhiều người theo đuổi việc học hành và nối đời đỗ đạt, nhiều người cũng trở thành tấm gương tiêu biểu về tinh thần học tập.
 Tranh vẽ khoa thi cử thời nhà Nguyễn.
Những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, sự thay đổi của lĩnh vực giáo dục đã gây ra những tác động sâu sắc nhất đến thượng tầng kiến trúc xã hội. Khoa cử Nho học với lịch sử 844 năm bắt rễ trong xã hội Việt Nam đã mất đi địa vị độc tôn của nó để thay thế bằng một hệ thống giáo dục kiểu mới, kéo theo sự lay chuyển của nền tảng tư tưởng, đạo đức, triết lý xã hội, và thực tiễn khoa học.
TS Nguyễn Tuấn Cường - Viện trưởng Viện Hán Nôm cho biết: “Bản thân các nhà Nho cấp tiến của Việt Nam lúc đó đã nhận thấy sự lỗi thời của Khoa cử Nho học. Từ đó, họ chủ trương một phong trào Duy tân dựa trên những nguyên tắc giáo dục mới và ủng hộ những cải cách giáo dục sâu rộng diễn ra vào đầu thế kỷ 20 nhằm xóa bỏ lối cử nghiệp Nho học.
Năm 1919 kỳ thi Hội cuối cùng diễn ra ở Trung Kỳ và Dụ ngày 14/7/1919 của vua Khải Định tuyên bố về việc áp dụng Luật giáo dục mới đã chính thức đặt dấu chấm hết cho Khoa cử Nho học truyền thống để chuyển sang hệ thống giáo dục kiểu mới, sau bước đệm là chương trình cải lương giáo dục khoa cử từ năm 1906”.
Trên thực tế, ảnh hưởng của nền khoa cử truyền thống ấy vẫn còn sâu đậm trong ý thức xã hội Việt Nam sau này. Việc trở lại với những giá trị Nho giáo từ đạo đức học đường tới tư tưởng quản trị xã hội vẫn thường xuyên được đặt ra, ngay cả khi nền giáo dục hiện đại đã tìm được chỗ đứng vững chắc của nó trong xã hội.
Năm 2019 đánh dấu 100 năm khép lại khoa cử truyền thống. GS.TS Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng khoa học Đại học quốc gia Hà Nội chia sẻ: Sự kết thúc của khoa cử Nho học 100 năm trước và sự thay thế chữ Hán (văn tự chính thức) là một tất yếu lịch sử nhưng đã để lại những hệ lụy. 75 - 80% chữ người Việt Nam đang dùng như Độc lập, Tự do, Hạnh phúc… đều viết dưới mỗi từ câu một chữ Hán, nghĩa là có gốc từ nguyên. Nghĩa từ nguyên của nó là từ chữ Hán”.
Theo GS.TS Vũ Minh Giang: “Từng từ ấy, có lẽ phải thống kê ra một số lượng nào đó để chúng ta dạy cho học sinh biết rằng từ này có nghĩa gốc sâu xa để học sinh dùng chuẩn hơn; hay là tìm ra những từ hay dùng nhầm mà người ta dùng lẫn âm mà không hiểu nghĩa".
Vì vậy, GS.TS Vũ Minh Giang cho rằng, muốn cải cách giáo dục, có thể rất nhiều biện pháp, học nước ngoài, học trong nước nhưng phải tìm hiểu cái nguồn gốc của giáo dục đi tới hôm nay là thế nào.
Nhiều chuyên gia khác cho rằng, ngành giáo dục Việt Nam cần đầu tư hơn nữa việc dạy cho giới trẻ nghĩa của từ nguyên (chữ Hán). Các nghiên cứu về Khoa cử Nho học Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên các tài liệu ghi chép lịch sử, do đó tập trung nhiều vào nghiên cứu thể chế khoa cử.
Tuy nhiên, còn hai nguồn tài liệu rất phong phú khác là Sách giáo khoa cho sĩ tử và bài thi của các sĩ tử còn chưa được đầu tư khai thác.