Sự thật bất ngờ về bánh trôi, bánh chay trêm mâm cúng Tết Hàn thực 3/3

Khang Nhi (Tổng hợp)
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tết Hàn Thực của người Việt mang màu sắc dân tộc riêng và được lưu giữ mãi trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Vào ngày 3/3 âm lịch tức là ngày Tết Hàn thực, các gia đình làm bánh trôi, bánh chay cúng ông bà, tổ tiên và không kiêng đốt lửa.

Ở nhiều nơi, người dân cũng làm bánh trôi bánh chay cúng thần hoàng. Những món ăn được nấu trong dịp này làm ra đều được cúng gia tiên với ý nghĩa con cháu một lòng hướng về tổ tiên, nguồn cội.

Sự thật bất ngờ về bánh trôi, bánh chay trêm mâm cúng Tết Hàn thực 3/3 - Ảnh 1

Đặc biệt, trong dịp này người đi xa quê sẽ đoàn tụ cùng gia đình, cùng đi tảo mộ người đã khuất và sum họp bên bữa cơm gia đình.

Để cúng Tết Hàn thực 3/3, mỗi gia đình cần chuẩn bị đầy đủ bánh trôi, bánh chay; hương, hoa, trầu cau; ly nước sạch và mâm ngũ quả.

Số lượng bánh trôi, bánh chay trong mâm cúng thường là 5 hoặc 3 bát bánh trôi, 3 hoặc 5 bát bánh chay.

Bánh trôi làm bằng bột nếp nhào nặn với nước, có nhân bằng đường. Gạo làm bánh trôi, bánh chay phải kén được nếp cái hoa vàng. Cứ chín phần nếp cho một phần tẻ hoặc non hai phần tẻ.

Đường làm nhân bánh trôi ngon nhất là đường phên Dương Liễu, Cát Quê, những miếng đường vuông thành, sắc cạnh, đỏ thắm, rắn đanh và giòn, hương thơm mát.

Bánh nặn xong, được thả vào nồi nước sôi. Bánh chìm xuống rồi nổi lên, “ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh” thì vớt ra và ngâm trong nước lã đun sôi để nguội cho săn trở lại rồi lại vớt ra bày vào đĩa. Đĩa bánh trôi được rắc thêm mấy hạt vừng trắng rang thơm.

Nguồn gốc của Tết Hàn thực

Theo nghĩa chữ Hán, "Hàn" là lạnh, "thực" là ăn, "Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời.

Chuyện kể rằng vào đời Xuân Thu (770 - 221), vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn nên phải bỏ nước lưu vong sống cảnh nay trú nước Tề, mai ở nước Sở.

Lúc ấy, có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi, theo phò vua đã giúp đỡ nhiều mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn kiệt, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong, hỏi ra mới biết đem lòng cảm kích vô cùng.

Giới Tử Thôi theo phò vua Tấn Văn Công trong vòng mười chín năm trời, cùng nhau nếm mật nằm gai, khổ luyện thành tài. Về sau, Tấn Văn Công dành lại được ngôi vương, trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công khi tòng vong, nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi.

Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình theo vua phò vua là chuyện nên làm, ông cho rằng những việc đó đâu có gì đáng nói.

Vì thế, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn. Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm Tử Thôi. Nhưng vì là người không tham danh vọng, Tử Thôi nhất quyết không quay về lĩnh thưởng, Tấn Văn Công ra lệnh đốt rừng nhằm thúc ép Tử Thôi quay về. Không ngờ Tử Thôi quyết chí, hai mẹ con cùng chịu chết cháy trong rừng. Hôm ấy là ngày 3/3 âm lịch.

Nhà vua hối hận cho lập miếu thờ. Hàng năm, cứ đến 3/3 âm lịch dân bị cấm dùng lửa nấu ăn, ngay cả việc làm cỗ cúng cũng phải làm từ hôm trước, đây được coi là ngày Tết Hàn thực.

Vào thời Trần, nhằm tiết Hàn thực, người Việt đã ăn bánh cuốn và có tục đem bánh cuốn tặng nhau, trước cả khi người Trung có tục ăn bánh trôi. Về sau, tục ăn bánh trôi vào ngày Hàn thực được du nhập vào thời Lê và được lưu truyền đến ngày nay.

Có thể nói, Việt Nam đã có tục ăn bánh vào tiết Hàn thực từ trước, sau này giao thoa văn hóa để chuyển thành bánh trôi. Ngày lễ này cũng đã hợp nhất với Tết bánh trôi, bánh chay, Tết tháng 3 của người Việt, đem nhiều nét đặc trưng riêng so với Trung Quốc. Chính là, người Việt đã tiếp thu văn hóa từ Trung Quốc, dựa trên nền tảng phong tục có trước và tạo ra những nét đặc sắc riêng biệt cho ngày Tết Hàn Thực và khiến nó mãi trường tồn đến bây giờ.