Số liệu thông kê từ Hội VLXD Việt Nam, trong những năm gần đây, tổng diện tích trung bình của tầng xây dựng mới đã chiếm tới 80 – 90 triệu m2 mỗi năm. Các văn phòng, khách sạn, trung tâm thương mại, nhà ở… tăng nhanh cùng tốc độ tăng trưởng của các tòa nhà quy mô lớn trên cả nước, đặc biệt là tại các TP lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…
Điều đáng nói, ở hầu hết các công trình xây dựng vẫn sử dụng các loại VLXD truyền thống, đặc biệt là gạch đất sét nung với sự gia tăng mạnh về số lượng tiêu thụ. Cụ thể: vào năm 2015 các hoạt động xây dựng đã tiêu thụ khoảng 32 tỷ viên gạch đất sét nung, để sản xuất ra được sản lượng như vậy thì cần phải có 4,5 tỷ tấn than dùng để nung và thải ra môi trường 18 tỷ tấn CO2.
Theo tính toán, cứ 1 tỷ viên gạch nung quy chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất được khai thác ở độ sâu khoảng 2m, tương đương với 75ha đất nông nghiệp. Việc dùng than làm nhiên liệu đốt gây ra hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường.
Dự báo đến năm 2020, nhu cầu sử dụng gạch nung của Việt Nam khoảng 42 tỷ viên, nếu đáp ứng nhu cầu này sẽ tiêu tốn từ 50 – 70 triệu m3 đất, tương đương với khoảng 3.000ha đất nông nghiệp, tiêu thụ hết 6 tỷ tấn than nung và thải ra môi trường khoảng 23 tỷ tấn CO2.
“Rõ ràng, việc sản xuất gạch từ đất xét nung đang tạp ra những áp lực vô cùng lớn đến môi trường sống của con người. Cần phải có giải pháp để tìm ra loại VLXD để dần thay thế loại VLXD truyền thống này” – PGS. TS Nguyễn Văn Tuấn – Đại học Xây dựng Hà Nội nói.
Cũng theo ông Tuấn, trước những áp lực từ việc sản xuất VLXD truyền thống, hiện nay ngành xây dựng đã nghiên cứu, sản xuất thành công và đưa vào sử dụng nhiều loại VLXD thân thiện với môi trường, thông qua quy trình chưng áp mà không phải nung bằng nhiên liệu đốt, như: gạch bên tông khí, thạch cao, kính xây dựng, VLXD làm từ hợp chất panel…
Theo các chuyên gia phương pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu những tác động lên môi trường trong quá trình sản xuất VLXD, đó là sử dụng các loại vật liệu dễ tái chế, như: tre, gỗ, vải sơn, thạch cao, tro bay công nghiệp, tấm MDF… Số liệu thống kê từ Khoa VLXD (Đại học Xây dựng Hà Nội) chỉ ra rằng, mỗi năm các phế liệu từ xây dựng và phá dỡ các công trình chiếm khoảng 8% tổng số lượng rác thải tại Việt Nam.
Theo PGS. TS Bùi Thị An – Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, việc sử dụng các loại VLXD dễ tái chế sẽ mang lại chất lượng cao do những sản phẩm tiền chế đã được chọn lọc và trong quá trình thi công loại vật liệu này sẽ có ít rác thải hơn. “VLXD tái chế không chỉ giảm năng lượng hàm chứa và rác thải xây dựng mà còn giúp tiết kiệm thời gian, chi phí trong quá trình thi công” – PGS. TS Bùi Thị An nói.