Thu hút 50 – 55% học sinh trung học vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp
Đây là những mục tiêu được Ban Bí thư đề ra tại Chỉ thị số 21-CT/CW của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mới được ban hành.
Chỉ thị số 21-CT/CW ngày 4/5/2023 do Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai ký, nêu rõ, trong những năm qua, GDNN luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức về GDNN trong xã hội được nâng lên; chính sách pháp luật từng bước được hoàn thiện. Hệ thống GDNN được hình thành theo hướng mở, liên thông, cơ bản phù hợp với các nước trên thế giới. Mạng lưới cơ sở GDNN phát triển mạnh; các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo được tăng cường… Tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề có bằng cấp, chứng chỉ; tỉ lệ lao động có việc làm phù hợp với kỹ năng nghề và trình độ đào tạo tăng…
Tuy nhiên, quy mô GDNN còn nhỏ; cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao. Gắn kết gữa Nhà nước – nhà trường – DN chưa chặt chẽ; hình thức, phương pháp tổ chức đào tạo chậm đổi mới, chưa đa dạng, linh hoạt.
Để tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng GDNN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tạo đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ Việt Nam và đoàn thể các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt một số mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm:
Phấn đấu đến năm 2030 thu hút 50 – 55% học sinh trung học vào hệ thống GDNN; đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho khoảng 50% lực lượng lao động; khoảng 90% cơ sở GDNN chất lượng cao, trong đó có một số cơ sở GDNN thực hiện chức năng trung tâm quốc gia, trung tâm vùng; một số cơ sở GDNN tiếp cận trình độ các nước ASEAN, G20. Có khoảng 200 ngành, nghề trọng điểm, trong đó 15 – 20 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt khung khu vực ASEAN và thế giới. Đến năm 2045, đáp ứng nhu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao của các nước phát triển, đạt trình độ tiên tiến của thế giới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên về đổi mới, phát triển GDNN là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước; là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài; khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của GDNN trong phát triển kinh tế - xã hội góp phần tạo việc làm bền vững cho thế hệ trẻ… Đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức người học, gia đình và xã hội về ý nghĩa của việc học nghề, kỹ năng nghề trong tiếp cận việc làm, nâng cao thu nhập và học tập suốt đời.
Đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về GDNN, bảo đảm gắn với thị trường lao động theo hướng mở, liên thông, hiện đại, hội nhập và thích ứng; tăng cường hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông, thực hiện tốt phân luồng, tăng tỉ lệ học sinh sau THCS vào GDNN; có chính sách khuyến khích học sinh khá, giỏi vào hệ thống GDNN.
Đẩy nhanh lộ trình phổ cập nghề cho thanh niên, công nhân, nông dân và người lao động thông qua các hình thức hỗ trợ phù hợp; ưu tiên đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên xung phong, người khuyết tật và các đối tượng yếu thế. Phát triển GDNN ở nông thôn, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo; ưu tiên quỹ đất sạch dành cho GDNN. Khuyến khích phát triển cơ sở GDNN của tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại cơ sở GDNN thuộc các cơ quan, bộ, ngành Trung ương và địa phương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII; chú trọng các ngành, nghề, lĩnh vực đào tạo có thế mạnh gắn với nu cầu thị trường lao động.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo, bảo đảm “học đi đôi với hành”, nâng cấp và chuẩn hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị; phương tiện đào tạo. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, người dạy nghề, chuyên gia cho các ngành, nghề trọng điểm. Đồng thời, chú trọng đào tạo kỹ năng nghề gắn với giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng số cho người học; thường xuyên cập nhật, đào tạo lại cho lực lượng lao động nhằm nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu đổi mới công nghệ, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,…
Nâng cao hiệu quả liên kết, hợp tác GDNN giữa Nhà nước – nhà trường – DN. Khuyến khích DN tham gia GDNN từ khâu tuyển sinh, đào tạo đến sử dụng, thành lập các cơ sở thực hành tại các cơ sở GDNN. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, gắn kết cung – cầu lao động với GDNN.
Tăng cường nguồn lực, ưu tiên ngân sách nhà nước cho GDNN trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục – đào tạo tương xứng với vị trí, vai trò của GDNN, nhất là cho đào tạo nhân lực chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn. Chuyển nhanh cơ chế cấp phát ngân sách sang đặt hàng, giao nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN. Đẩy mạnh xã hội hóa, hợp tác công – tư; bảo đảm chính sách bình đẳng đối với các cơ sở GDNN công lập và ngoài công lập.
Đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về GDNN; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, hợp tác đào tạo, chuyên gia, nhà giáo, người học với các nước...