70 năm giải phóng Thủ đô

Tăng tiền lương đóng bảo hiểm xã hội, có thể gây “hậu quả ngược”

Trần Oanh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Cho rằng mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) vẫn còn khoảng cách nhất định so với thu nhập thực tế, ảnh hưởng đến thụ hưởng các chế độ BHXH của người lao động nên Bộ LĐTB&XH đưa ra hai phương án để lấy ý kiến.

Phương án 2 làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp

Trong dự thảo Luật BHXH (sửa đổi), Bộ LĐTB&XH là cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra hai phương án tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Phương án 1 (giữ nguyên như quy định hiện hành): Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động.

Ban IV cho rằng,  tiền lương làm căn cứ đóng BHXH theo phương án 2 sẽ làm gia tăng chi phí của người sử dụng lao động, người lao động. Ảnh minh họa.
Ban IV cho rằng,  tiền lương làm căn cứ đóng BHXH theo phương án 2 sẽ làm gia tăng chi phí của người sử dụng lao động, người lao động. Ảnh minh họa.

Phương án 2: Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

Tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là vấn đề được nhiều DN và người lao động quan tâm. Mới đây, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn Cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng đã tổng hợp ý kiến của trên 30 Hiệp hội và đại diện DN các ngành.

Liên quan tới căn cứ tính đóng BHXH bắt buộc, các Hiệp hội, DN cho rằng, đây là nội dung có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở bài toán an sinh cho xã hội, người lao động, mà còn là bài toán năng lực cạnh tranh của DN và nền kinh tế Việt Nam. Vì thế, Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ lưỡng, có đánh giá điều kiện thực tiễn, có cân nhắc kinh nghiệm quốc tế, khu vực một cách toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh hết sức khó khăn hiện nay để lựa chọn phương án khả thi, hợp lý.

Theo Ban IV, trong trường hợp dự Luật giữ nguyên quy định như phương án 1, DN và người lao động sẽ không phải chịu áp lực về chi phí “gia tăng đột biến”. Nhưng cơ quan quản lý nhà nước thì phải tìm được phương án, giải pháp nhằm giải quyết bài toán “chậm đóng, trốn đóng, nợ bảo BHXH…” của một số nhóm DN và người lao động.

Còn nếu dự Luật áp dụng theo phương án 2, căn cứ tính đóng BHXH sẽ tăng lên, 2 vấn đề có thể xảy ra trong thực tế: Việc điều chỉnh tăng căn cứ tính đóng BHXH có thể khiến tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH càng trở lên trầm trọng hơn; Việc điều chỉnh tăng căn cứ tính đóng BHXH khiến gia tăng chi phí lao động của DN, trong bối cảnh chi phí này đã được cho là “cao nhất trong khối Asean” sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của DN và năng lực cạnh tranh quốc gia và có thể gây “hiệu quả ngược” đối với các mục tiêu thu hút đầu tư FDI, đầu tư tư nhân đang được đẩy mạnh.

Đề xuất giữ nguyên quy định hiện hành, có biện pháp quản lý

Theo thống kê của BHXH Việt Nam, đến hết năm 2022, cả nước có hơn 2,13 triệu người lao động bị DN chậm đóng BHXH từ 1 đến 3 tháng, 440.800 người bị nợ đóng từ 3 tháng trở lên và gần 213.400 người bị “treo” sổ tại các DN đã giải thể, ngừng hoạt động. Số lao động đang bị nợ bảo hiểm chiếm 17,4% tổng số lao động tham gia BHXH bắt buộc.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do công tác thanh tra, kiểm tra BHXH chưa được thường xuyên, các chế tài xử lý chưa nghiêm, việc thu BHXH chưa kịp thời, hiệu quả, ý thức chấp hành của một số người sử dụng lao động còn hạn chế…

Ban IV và các chuyên gia đề nghị giữ nguyên quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH như hiện hành nhưng gia tăng thanh kiểm tra, quản trị. Ảnh minh họa.
Ban IV và các chuyên gia đề nghị giữ nguyên quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH như hiện hành nhưng gia tăng thanh kiểm tra, quản trị. Ảnh minh họa.

Cùng với đó là những khó khăn về dòng tiền cũng như việc thu hẹp sản xuất của nhiều DN do ảnh hưởng tiêu cực của Covid-19 và những tác động khó lường của bối cảnh kinh tế thế giới gây ra. Trong khi đó, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực; lợi thế lao động giá rẻ giảm dần, thậm chí ở nhiều ngành không còn hiện hữu so với nhiều quốc gia trong khu vực do tốc độ tăng chi phí lao động nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Về phía DN còn phải đào tạo lại do trình độ lao động còn nhiều hạn chế.

“Việc điều chỉnh căn cứ tính đóng BHXH như phương án 2 sẽ làm gia tăng chi phí của người sử dụng lao động, người lao động mà chưa thực sự giải quyết triệt để các nguyên nhân trực diện của tình trạng “chậm đóng, trốn đóng”… như chính cơ quan quản lý Nhà nước đã đánh giá. Trong bối cảnh người lao động đang hết sức khó khăn, quy định này có thể dẫn đến tình trạng DN và người lao động càng tìm cách trốn đóng BHXH, khiến chính sách khó đạt được mục tiêu kỳ vọng và ảnh hưởng đến độ bao phủ của BHXH nói riêng và chính sách BHXH nói chung” - Ban IV nêu rõ.

Từ phân tích và nhận định trên, Ban IV cùng các Hiệp hội, DN đề xuất Thủ tướng Chính phủ khuyến khích Ban soạn thảo dự Luật làm việc kỹ với các DN, Hiêp hội, chuyên gia để đánh giá tính hợp lý, khả thi của các phương án đưa ra và tập trung nhiều vào phân tích phương án 1 đề xuất giữ nguyên quy định hiện hành về căn cứ tính đóng BHXH, kết hợp với xác lập các biện pháp quản lý hiệu quả khác nhằm bảo đảm các mục tiêu toàn diện của chính sách BHXH cũng như chính sách phát triển kinh tế và DN.

Ban soạn thảo dự Luật nghiên cứu, thể hiện rõ ràng các quy định liên quan tới các khoản phụ cấp, bổ sung phải tính đóng BHXH để tránh tình trạng sau này dự Luật đi vào đời sống, cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động có những cách hiểu khác nhau khiến việc chấp hành pháp luật về BHXH bị ảnh hưởng tiêu cực.

Các chuyên gia quốc tế về lao động cũng cho rằng, Ban soạn thảo dự Luật nên cân nhắc đề xuất gia tăng các hình thức thanh kiểm tra, quản trị dựa trên dữ liệu, liên kết dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu thuế, BHXH; kết hợp chế tài nghiêm minh,… thì khắc phục được tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH mà vẫn tạo được thuận lợi cho DN và người lao động.