Bổ sung 6 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng
Luật quy định sĩ quan được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng phải còn ít nhất đủ 3 năm công tác; trường hợp không còn đủ 3 năm công tác khi có yêu cầu do Chủ tịch nước quyết định. Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng cấp bậc hàm cấp tướng trước thời hạn.
Về số lượng vị trí có cấp bậc hàm cấp tướng, luật quy định Thượng tướng không quá 7, bao gồm: Thứ trưởng Bộ Công an (không quá 6) và sĩ quan Công an nhân dân biệt phái được bầu giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Trong khi đó số lượng Thiếu tướng không quá 162.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Trung tướng, Thiếu tướng chưa được quy định cụ thể trong luật này, quy định cấp bậc hàm cấp tướng đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan ở đơn vị thành lập mới nhưng không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội liên quan nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, việc xác định số lượng vị trí cấp tướng đã được xem xét, đánh giá thận trọng, kỹ lưỡng, đặt trong tổng thể tương quan với số lượng vị trí cấp tướng QĐND trong quá trình xây dựng Luật CAND và Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và đã được cấp có thẩm quyền quyết định.
Luật CAND hiện hành đã quy định 199 vị trí có cấp bậc hàm cấp tướng; từng vị trí đã được quy định cụ thể trong luật và trong Nghị quyết của UBTVQH.
Luật này bổ sung 6 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng là đủ số lượng vị trí theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Đối với trường hợp, sĩ quan CAND biệt phái được bầu giữ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội thì sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định cấp bậc hàm cao nhất theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật hiện hành.
Trong 6 vị trí được bổ sung có 1 vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Thượng tướng với sĩ quan Công an nhân dân biệt phái được phê chuẩn chức vụ Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. 5 vị trí có cấp hàm cao nhất là Thiếu tướng gồm: Hiệu trưởng trường Đại học An ninh nhân dân, Hiệu trưởng trường Đại học Cảnh sát nhân dân; 1 trợ lý uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an cùng 2 vị trí phó Cục trưởng và tương đương của 2 đơn vị trực thuộc Bộ Công an.
Trưởng Công an TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có cấp bậc cao nhất là Đại tá
Tại báo cáo tiếp thu giải trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, một số ý kiến đề nghị bổ sung một số vị trí có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá như: Trưởng công an các thành phố là đô thị loại I thuộc tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương; Trưởng Công an huyện thuộc Công an TP Hà Nội, Công an TP Hồ Chí Minh; Trưởng công an cấp huyện công tác từ 5 năm trở lên ở các huyện biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; một số ý kiến khác đề nghị chỉ Trưởng công an thành phố thuộc TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mới có cấp bậc hàm Đại tá.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung Trưởng Công an thành phố thuộc Công an TP Hà Nội, Công an Hồ Chí Minh có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá.
Đối với các vị trí Trưởng công an các thành phố là đô thị loại I thuộc tỉnh, Trưởng Công an huyện thuộc Công an TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, Trưởng công an cấp huyện công tác từ 5 năm trở lên ở các huyện biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nếu bổ sung các vị trí này có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá sẽ có số lượng nhiều, khó bảo đảm tương quan với các vị trí khác trong CAND và QĐND. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội chưa bổ sung thêm vị trí trên mà thực hiện theo quy định của Luật hiện hành.
Ngoài ra, qua hoạt động nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bổ sung 2 vị trí là Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Trưởng phòng Công tác đảng và công tác chính trị thuộc Công an TP Hà Nội, Công an TP Hồ Chí Minh có cấp bậc hàm cao nhất là Đại tá để tương xứng với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, phù hợp với hệ thống cấp bậc hàm của công an 2 thành phố này (Giám đốc - Trung tướng, Phó Giám đốc - Thiếu tướng, Trưởng phòng quan trọng - Đại tá).
Tăng hạn tuổi phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan và công nhân công an
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, hiện nay, tuổi nghỉ hưu của người lao động đã được điều chỉnh theo quy định của Bộ luật Lao động từ năm 2021, do đó, cần thiết phải điều chỉnh hạn tuổi phục vụ của CAND để bảo đảm sự bình đẳng, công bằng giữa các đối tượng, ngành nghề lao động, đồng thời cũng bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Chính vì vậy, luật được Quốc hội thông qua sửa đổi, bổ sung hạn tuổi phục vụ cao nhất của hạ sĩ quan, sĩ quan công an. Cụ thể, Hạ sĩ quan 47 tuổi; Cấp úy 55; Thiếu tá, Trung tá (nam 57, nữ 55); Thượng tá (nam 60, nữ 58); Đại tá (nam 62, nữ 60); Cấp tướng (nam 62; nữ 60).
Trường hợp đơn vị công an có nhu cầu, sĩ quan công an là Cấp úy, Thiếu tá, Trung tá; Thượng tá, nếu có đủ phẩm chất, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, nhưng không quá 62 đối với nam và 60 đối với nữ. Trường hợp đặc biệt sĩ quan có thể được kéo dài tuổi phục vụ hơn 62 đối với nam và hơn 60 đối với nữ theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Với công nhân công an, hạn tuổi phục vụ cao nhất với nam là 62 tuổi, nữ 60 tuổi và thực hiện theo lộ trình về tuổi nghỉ hưu đối với người lao động như quy định của Bộ luật Lao động.
Thời gian tăng tuổi theo lộ trình: Mỗi năm tăng 3 tháng đối với nam và 4 tháng đối với nữ. Riêng sĩ quan, hạ sĩ quan có hạn tuổi phục vụ cao nhất dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ thì tăng ngay 2 tuổi, không theo lộ trình nêu trên.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2023.