Gần đây, những câu hỏi quan trọng đã nảy sinh liên quan đến năng lực của khối trong việc mang lại những lợi thế kinh tế hữu hình, theo nhà kinh tế học Doris Liew tại IDEAS Malaysia khẳng định với Nikkei Asia.
Bà Doris Liew đặt vấn đề, tư cách thành viên BRICS có thực sự thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững hay không, hay những chi phí và thách thức liên quan sẽ lớn hơn phần thưởng.
Bức tranh toàn cầu về thương mại được dệt nên một cách phức tạp bằng những sợi chỉ địa lý và kinh tế. Những yếu tố này kết hợp lại để định hình sự hình thành và thành công của các hiệp định thương mại.
Vị trí địa lý gần nhau là yếu tố cơ bản quyết định các mô hình thương mại. Các quốc gia có chung biên giới hoặc nằm gần nhau thường có chi phí vận chuyển thấp hơn và giảm rào cản thương mại. Ví dụ, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, Liên minh Châu Phi và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại liền mạch giữa các nước láng giềng trong khu vực có chung vị trí gần nhau. Hơn nữa, các mối liên kết kinh tế chung có thể tạo ra mối quan hệ thương mại bền vững và mạnh mẽ hơn, như đã thấy trong sự hợp tác giữa các quốc gia giàu dầu mỏ ở Trung Đông.
Tuy nhiên, các quốc gia BRICS không có những điểm chung này. Họ phân tán về mặt địa lý và kinh tế. Những yếu tố này cản trở thương mại và hợp tác hiệu quả. Các thành viên BRICS sở hữu các cấu trúc kinh tế đa dạng với các mức độ phát triển, công nghiệp hóa và chuyên môn hóa thương mại khác nhau. Brazil là nước xuất khẩu nông sản lớn, trong khi Nga là nước sản xuất dầu khí đáng kể. Ấn Độ có ngành nông nghiệp khổng lồ và nền kinh tế dịch vụ và công nghệ thông tin đang phát triển nhanh chóng, trong khi Trung Quốc là cường quốc sản xuất. Nam Phi lại có nền kinh tế đa dạng với ngành khai khoáng mạnh.
Sự không đồng nhất về kinh tế này khiến việc xác định các lợi ích kinh tế chung và thực hiện các chính sách hợp tác trở nên khó khăn.
Do đó, việc gia nhập BRICS có thể không có lợi về mặt kinh tế cho tất cả các nước châu Á. Ví dụ, ngành công nghiệp bán dẫn nặng của Malaysia phù hợp với động lực kinh tế của Trung Quốc nhưng lại có tương đối ít kết nối chuỗi cung ứng với Brazil hoặc Nam Phi. Ngành du lịch của Thái Lan có mối liên kết hạn chế với các nước BRICS và ngành sản xuất của nước này đã có mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc.
Mặc dù cùng nhau đại diện cho gần một nửa GDP toàn cầu, thương mại nội khối BRICS (trừ Trung Quốc) vẫn ở mức thấp đáng kể.
Ví dụ, Brazil giao dịch nhiều hơn với Mỹ (37,1 tỷ USD) và Argentina (16,7 USD) so với bất kỳ thành viên nào của BRICS vào năm 2023. Tương tự, các đối tác thương mại chính của Nam Phi ngoài Trung Quốc là Mỹ (8,4 tỷ USD) và Đức (7,8 tỷ USD). Bên cạnh đó, các nhà đầu tư quan trọng nhất vào các quốc gia BRICS không phải là các thành viên khác mà là các nền kinh tế phát triển đã thành lập.
Từ tháng 4/2000 đến tháng 3/2024, Mauritius và Singapore là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính vào Ấn Độ, đóng góp tổng cộng 49% tổng dòng vốn vào. Mỹ, Hà Lan và Nhật Bản cũng là những nhà đầu tư quan trọng, đóng góp lần lượt là 10%, 7% và 6%. Đối với Nam Phi, dòng vốn FDI lớn nhất đến từ Hà Lan và Vương quốc Anh. Trung Quốc đóng vai trò tương đối nhỏ trong FDI của BRICS, và ngoài Trung Quốc, FDI nội khối BRICS gần như không tồn tại.
Mặc dù các nước Đông Nam Á đã thiết lập các hiệp định thương mại khu vực với các đối tác lớn như Trung Quốc và Ấn Độ, chẳng hạn như Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RECEP) và ASEAN+1, nhưng việc tham gia BRICS khó có thể mang lại thêm lợi ích kinh tế.
Việc gia nhập BRICS cũng có thể hạn chế tính linh hoạt về ngoại giao của một quốc gia. Sự liên kết chặt chẽ với Trung Quốc và Nga, các thành viên chủ chốt của khối, có thể gây căng thẳng trong quan hệ với các đối tác thương mại quan trọng khác như Mỹ hay EU. Để đảm bảo sự thịnh vượng kinh tế lâu dài và an ninh địa chính trị, các quốc gia phải cân bằng cẩn trong giữa các mối quan hệ nội khối BRICS với các quốc gia bên ngoài khối.
Vì những lý do này, trong khi Malaysia và Thái Lan bày tỏ sự quan tâm đến tư cách thành viên BRICS, Indonesia đã từ chối một cách dứt khoát để ủng hộ tư cách thành viên G20. Trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu ngày càng phân cực, các quốc gia châu Á cũng cần coi trọng việc duy trì lập trường trung lập về kinh tế.