Thêm cơ hội sống cho hơn 350.000 bệnh nhân ung thư

Hà Linh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Theo thông tin từ Bệnh viện K., đến nay, hàng nghìn bệnh nhân được điều trị và hưởng lợi từ thành tựu liệu pháp miễn dịch, kết hợp với các phương thức phẫu thuật, xạ trị, hoá trị … chữa khỏi ung thư giai đoạn sớm và kéo dài thời gian sống thêm bệnh giai đoạn di căn.

Điều trị miễn dịch trì hoãn bệnh tiến triển nhưng không chữa khỏi triệt để ung thư giai đoạn muộn

TS Phạm Tuấn Anh - Phó Trưởng khoa Điều trị A, Bệnh viện K. cho biết, liệu pháp miễn dịch là dùng thuốc kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tấn công ung thư. Hiện nay có 2 nhóm điều trị miễn dịch.

Nhóm thứ nhất sử dụng các thuốc đích để kích hoạt các tế bào miễn dịch của cơ thể có khả năng chống lại các khối u. Hướng thứ hai là lấy các tế bào có chức năng miễn dịch ra khỏi cơ thể bệnh nhân, gắn các thụ thể có khả năng nhận biết tế bào ung thư và nhân lên.

Hay nói cách khác là “huấn luyện” các tế bào miễn dịch có khả năng “tìm và diệt” tế bào ung thư. Sau đó đưa các tế bào miễn dịch này trở lại cơ thể bệnh nhân.

Bệnh nhân thăm khám, điều trị tại Bệnh viện K. Ảnh: Hà Linh
Bệnh nhân thăm khám, điều trị tại Bệnh viện K. Ảnh: Hà Linh

Điển hình của nhóm này là liệu pháp tế bào miễn dịch CAR-T được chỉ định trong u lympho và bệnh bạch cầu. Điều trị miễn dịch đã cải thiện đáng kể thời gian sống thêm toàn bộ cũng như trì hoãn thời gian bệnh tiến triển nhưng không chữa khỏi triệt để được ung thư giai đoạn muộn.

Một trường hợp tiêu biểu minh chứng hiệu quả của điều trị miễn dịch là bệnh nhân nam 75 tuổi cách đây 5 năm được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến kém biệt hoá của phổi phải giai đoạn II, được phẫu thuật cắt thuỳ dưới phổi phải, vét hạch và hoá trị bổ trợ 4 chu kì.

Cách đây 3 năm bệnh nhân tái phát di căn màng phổi, được điều trị hoá trị kết hợp miễn dịch sau đó duy trì miễn dịch, giữ được bệnh ổn định đến thời điểm hiện tại.

Theo TS Phạm Tuấn Anh, điều trị miễn dịch là một trong những thành tựu mới nhất và lớn nhất trong điều trị ung thư. Điều trị miễn dịch giúp hoạt hoá hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư một cách hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, việc tăng cường hệ thống miễn dịch đã dẫn đến quá mẫn với một loạt các phản ứng đáp ứng viêm hệ thống, được gọi là các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch (irAE).

Tỷ lệ được báo cáo của các biến cố bất lợi này qua các nghiên cứu dao động trong khoảng rất rộng, từ 15% đến 90% tuỳ loại độc tính, mức độ độc tính và không giống nhau giữa các thuốc miễn dịch và các bệnh ung thư khác nhau.

Các biến cố bất lợi nặng dẫn đến ngưng điều trị hoặc tử thường rất thấp. Nhìn chung, hầu hết độc tính ở mức độ nhẹ và có thể kiểm soát được nếu bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ và điều trị thích hợp.

Điều trị ung thư ngày càng có tín hiệu lạc quan

Ở Việt Nam, liệu pháp miễn dịch được áp dụng rộng rãi trong khoảng 5 năm trở lại đây. Hàng nghìn bệnh nhân được điều trị và hưởng lợi từ thành tựu này, kết hợp với các phương thức phẫu thuật, xạ trị, hoá trị … chữa khỏi ung thư giai đoạn sớm và kéo dài thời gian sống thêm bệnh giai đoạn di căn.

Hiệu quả của liệu pháp miễn dịch mang lại là rõ ràng, nhưng qua nghiên cứu và thực hành điều trị, không phải tất cả các bệnh nhân đều đáp ứng với thuốc miễn dịch, mà phụ thuộc vào các dấu ấn sinh học.

Liệu pháp miễn dịch là dùng thuốc kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tấn công ung thư. 
Liệu pháp miễn dịch là dùng thuốc kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tấn công ung thư. 

Tuy nhiên, theo TS Phạm Tuấn Anh, giá thành và chi phí của điều trị miễn dịch khá cao so với thu nhập nhiều người bệnh. Để nhiều bệnh nhân được tiếp cận các hãng dược cần giảm giá thành, các cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách bảo hiểm y tế phù hợp cũng như kêu gọi sự chung tay của xã hội, cộng đồng xây dựng các chương trình hỗ trợ bệnh nhân.

Cũng theo số liệu của IARC, tại Việt Nam năm 2020 ước tính có 182.563 ca mắc mới, 122.690 ca tử vong do ung thư và hiện trên toàn quốc có 353.826 bệnh nhân đang chung sống với bệnh ung thư.

Năm loại ung thư phổ biến nhất ở cả hai giới lần lượt là ung thư gan (chiếm 14,5%), ung thư phổi (chiếm 14,4%), ung thư vú (chiếm 11,8%), ung thư dạ dày (chiếm 9,8%), và ung thư đại trực tràng (chiếm 9%).

Trong lĩnh vực nội khoa ung thư, với hiểu biết về sinh học phân tử khối u cũng như nhiều thuốc mới ra đời, điều trị ung thư không còn đơn giản dựa trên giai đoan và thể mô học mà dựa trên hệ gen của mỗi bệnh nhân và đặc tính sinh học phân tử khối u. Điều trị đích và miễn dịch là những thành tựu nổi bật nhất trong những năm qua.

Hướng nghiên cứu trong tương lai là kết hợp các liệu pháp miễn dịch khác nhau, hay sử dụng liệu pháp miễn dịch kết hợp với các phương pháp điều trị đích cũng như nghiên cứu ứng dụng điều trị miễn dịch ở các bệnh nhân giai đoạn sớm.