Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thêm hỗ trợ, nâng tầm doanh nghiệp Việt trên "sân chơi" EVFTA

Bình Minh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Thiếu chủ động tận dụng ưu đãi, chưa chú trọng xây dựng thương hiệu xuất khẩu sang EU là những yếu tố khiến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt còn thấp khi tham gia sân chơi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

Thiếu chủ động tận dụng ưu đãi

Thông tin từ Bộ Công Thương, trong năm 2022, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) đạt 62,24 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EU đạt 46,8 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu từ các nước EVFTA đạt 15,4 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2021.

Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Ảnh minh họa
Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Ảnh minh họa

Thặng dư thương mại của Việt Nam với các nước EU trong năm 2022 đạt 31,4 tỷ USD, tăng 35,1% so với năm 2021. Tuy nhiên, dù có mức thặng dư thương mại lớn thứ hai, chỉ sau Mỹ nhưng tỷ trọng thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam còn chưa cao, tương ứng là 12,6% và 4,3%.

Thương mại hai chiều Việt Nam - EU trong 9 tháng năm 2023 đạt 44 tỷ USD. Trong đó Việt Nam xuất khẩu sang EU 32,8 tỷ USD, giảm 8,2%, nhập khẩu 11,2 tỷ USD, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Bộ Công Thương đánh giá, sau gần 3 năm thực thi EVFTA, xuất khẩu sang châu Âu tăng trưởng tích cực, tuy nhiên tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ hiệp định đem lại vẫn chưa như kỳ vọng, chỉ đạt khoảng gần 26%.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Âu khởi sắc nhờ EVFTA. Ảnh minh họa
Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Âu khởi sắc nhờ EVFTA. Ảnh minh họa

Đáng chú ý, các doanh nghiệp thiếu chủ động trong đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để hưởng ưu đãi; các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn chiếm đa số trong tỷ trọng hàng có kim ngạch lớn xuất sang EU như: da giày, điện thoại và linh kiện, máy móc thiết bị. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô hoặc theo đơn đặt hàng gia công của các nhà nhập khẩu nước ngoài.

Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được thương hiệu xuất khẩu sang các thị trường EVFTA còn hạn chế. Việc xây dựng và định vị thương hiệu cho các mặt hàng “Made in Viet Nam” tại thị trường khó tính trong khối EVFTA chưa được quan tâm.

Đáng nói, nhiều doanh nghiệp mới chỉ tham gia được một số công đoạn của chuỗi cung ứng; khả năng đáp ứng, tuân thủ các yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và các yêu cầu kỹ thuật của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhất là trong bối cảnh nhiều thị trường nhập khẩu ngày càng nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng rào phi thuế quan.

Thêm chính sách hỗ trợ doanh nghiệp

Nguyên nhân khiến doanh nghiệp chưa tận dụng thời cơ, ưu đãi của EVFTA được Bộ Công Thương chỉ rõ là do ảnh hưởng xung đột Nga - Ukraine kéo dài làm đứt gãy chuỗi cung ứng, tổng cầu suy giảm và ảnh hưởng trực tiếp tới đơn hàng, khả năng tiếp cận thị trường EVFTA của doanh nghiệp Việt.

 

Bộ Công Thương đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước chủ động tìm kiếm, kết nối và hợp tác với các Tổ chức tín dụng quốc tế như IFC, WB, ADB hay các nguồn tài chính hợp pháp khác để tạo nguồn vốn giúp các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nhằm kịp thời đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng cao từ các thị trường xuất khẩu cũng như thị hiếu của người tiêu dùng trên thế giới.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên

Trong khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu, giá thành cao, chất lượng thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Doanh nghiệp chủ yếu gia công theo đơn hàng của nhà nhập khẩu và nhập nguyên liệu sản xuất từ các nước không đạt tiêu chí về quy tắc xuất xứ theo quy định tại EVFTA. Nhiều doanh nghiệp chưa chú trọng nâng cao trình độ quản trị, chiến lược kinh doanh dài hạn. Đặc biệt, doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ mục tiêu tận dụng EVFTA của Việt Nam.

Hoạt động xúc tiến thương mại, cập nhật thông tin cũng như kết nối thương mại tại các thị trường FTA nói chung và EVFTA nói riêng dù được đẩy mạnh hơn nhưng chưa đáp ứng đủ yêu cầu của doanh nghiệp. Đặc biệt, do nguồn kinh phí và nhân lực còn hạn chế nên các cơ quan quản lý và doanh nghiệp chưa đủ điều kiện thúc đẩy hơn nữa hoạt động này. Việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp tại các địa phương còn dàn trải, không tập trung vào các ngành và lĩnh vực thế mạnh của địa phương.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, trước bối cảnh hiện nay, để thúc đẩy việc tận dụng cơ hội từ các hiệp định tự do cũng như EVFTA mang lại, Bộ Công Thương đã đề xuất Chính phủ xem xét dành nguồn vốn riêng để hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các FTA. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan làm việc cụ thể với các ngân hàng thương mại để xây dựng nguồn tín dụng phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực sản xuất như: tạo điều kiện tiếp cận tín dụng thuận lợi, cho vay lãi suất ưu đãi phù hợp với cam kết quốc tế.

Khuyến nghị về giải pháp, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) TS. Nguyễn Thị Thu Trang  cho rằng, Chính phủ cần có chính sách tổng thể hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng nguồn nguyên liệu nội khối nhằm đáp ứng tiêu chí xuất xứ theo quy định của từng FTA, trong đó có EVFTA.