Pho tượng Tể tướng Lưu Nhân Chú được đặt trong đền thờ ông tại xã Văn yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. |
Lưu Nhân Chú (? - 1433) người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Cha ông là Lưu Trung, lấy mẹ ông là bà dâu góa họ Lê, rồi sinh ra ông. Ông còn có một người anh em cùng mẹ khác cha, cũng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn rồi làm quan nhà Lê là Trịnh Khắc Phục.Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn thì Lưu Nhân Chú thời trẻ nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Trong một đêm ông nằm ngủ trọ ở đền thờ thần, nằm mộng được điềm tốt. Sau đó ông vào Lam Sơn, theo Lê Lợi, được làm Thứ thủ ở vệ kỵ binh (?) trong quân Thiết đột.Năm 1416, ông và các hào kiệt tham dự Hội thề Lũng Nhai cùng với Lê Lợi. Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi Chí Linh, “xông pha tên đạn, ra vào trận mạc đem hết sức ra giúp” (Đại Việt thông sử).Năm 1424, để phá thế bao vây của quân Minh, phát triển cuộc khởi nghĩa, theo kế sách của Nguyễn Chích, Lê Lợi chuyển hướng địa bàn chiến lược vào Nghệ An. Sau khi hạ thành Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hóa), phục kích thắng trận ở Bồ Đằng (Quỳ Châu, Nghệ An), nghĩa quân Lam Sơn tiến sang bao vây bức hàng thành Trà Lân (Con Cuông, Nghệ An). Quân Minh từ thành Nghệ An và Tây Đô tiến lên hòng giành lại. Nghĩa quân Lam Sơn tổ chức phục kích ở Khả Lưu và Bồ Ải là hai ải trọng yếu trên đường tiến lên Trà Lân. Quân ta thắng to. Quân địch bại trận phải rút về thành Nghệ An cố thủ. Trong trận này, Lưu Nhân Chú là một trong các tướng cầm quân, chiến đấu rất tài trí và dũng mãnh; “ông xông lên trước hãm trận, thu được toàn thắng, nổi tiếng một thời”. (Đại Việt thông sử).Từ Trà Lân, nghĩa quân giải phóng các huyện đồng bằng, bao vây thành Nghệ An và củng cố đại bản doanh Đỗ Gia; tiến quân vào nam giải phóng Hóa châu; phục kích đánh thắng trận Đỗ Gia; tiến ra bắc vây thành Diễn Châu, đánh úp quân Minh từ Đông Đô vào cứu viện. Năm 1425, Lê Lợi tổ chức tiến quân ra bắc. Lưu Nhân Chú cùng các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Lê Triện đánh úp phá quân Minh ở thành Tây Đô. Lưu Nhân Chú được phong chức Thông hầu.Mùa thu năm 1426, Lưu Nhân Chú cùng Lê Sát, Lê Bị, Lê Khuyển, Lê Nanh, Lê Sát, Lê Khuyển, Lê Nanh mang quân ra lộ Trường Yên, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để chặn đường về của quân Minh do Phương Chính, Lý An chỉ huy, khi cánh quân này định bỏ Nghệ An đưa quân về cứu Đông Đô.Tiếp đó, nhận thấy quân tinh nhuệ của giặc Minh tập trung ở thành Nghệ An, thành Đông Đô trống rỗng, Lê Lợi sai “Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra từ Thiên Quang, đi tuần vùng Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang và Lạng Sơn để diệt đạo viện binh từ Lưỡng Quảng kéo xuống” (Cương Mục).Tháng 3 năm 1427, Lưu Nhân Chú được phong chức Hành quân đô đốc tổng quản, Nhập nội đại tư mã, lĩnh 4 vệ Tiền, Hậu, Tả, Hữu, kiêm coi việc quân Tân vệ. Tới tháng 6 năm đó, Lê Lợi phong cho ông chức Tư không và dặn rằng: "Chức tước đã cao thì sớm hôm phải chăm chỉ, không nên trễ nãi, biếng nhác, khiến uổng phí cả công lao". Nói rồi, liền ban cho ông một cái tán (Đại Việt thông sử).Mùa thu năm 1427, nhà Minh sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân kéo sang giải vây cho Vương Thông. Lưu Nhân Chú được lệnh cùng Lê Sát mang 1 vạn quân, 5 thớt voi đực lên trước ải Chi Lăng đợi đánh. Ông cùng hợp mưu với Lê Sát, sai Trần Lựu giả thua để nhử Liễu Thăng ở Chi Lăng rồi tung quân mai phục ra đánh úp. Liễu Thăng, Lương Minh bị chém chết. Hai tướng Minh còn lại là Hoàng Phúc và Thôi Tụ cố mở đường tiến về Xương Giang. Lưu Nhân Chú và Lê Sát chặn đánh, giết được 2 vạn quân địch..Sau đó, khi Phúc và Tụ kéo tới Xương Giang mới biết thành này đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân giữa đồng không. Lê Lợi sai Lê Lý cùng Lê Văn An, Lê Khôi mang quân tới tiếp ứng cho Lưu Nhân Chú tổng tiến công quân Minh ở Xương Giang, giết và bắt sống toàn bộ quân địch. Tướng Hoàng Phúc cũng bị bắt.Mộc Thạnh cầm một cánh quân viện binh khác, nghe tin Liễu Thăng bại trận nên bỏ chạy về. Vương Thông bị vây ngặt ở Đông Quan không còn quân cứu ứng phải xin giảng hoà để rút về nước.Lê Lợi và Vương Thông bằng lòng đổi con tin. Thông cử hai tướng Sơn Thọ, Mã Kỳ sang bên quân Lam Sơn còn Lê Lợi sai con cả là Lê Tư Tề cùng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan.Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (10/12/1427), Lưu Nhân Chú theo Lê Lợi và 13 tướng lĩnh tham gia Hội thề Đông Quan với tướng Vương Thông nhà Minh. Quân Minh cam kết rút về nước.“Là người phò tá có tài, là bề tôi tận trung của nước”Ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ. Lưu Nhân Chú được ban quốc tính và được phong làm Suy trung Tán trị Hiệp mưu Dương vũ công thần, nhập nội kiểm hiệu, Bình chương quân quốc trọng sự, đứng đầu hàng võ trong triều đình, kiêm coi chính sự nhà nước.Dịp này, vua Lê Thái Tổ ban bài chế cho ông, có đoạn:"Trẫm nghĩ: Vua tôi một thể, chân tay giỏi thì đầu được tôn. Giúp đỡ có người, rường cột chắc thì nhà mới vững. Người là người phò tá có tài, là bề tôi tận trung của nước. Nên trẫm cho vinh hạnh ở ngôi Tể tướng, và vẫn giữ trách nhiệm coi nắm binh quyền. Nay ban cho tờ chiếu chỉ; để nêu rõ bậc quan sang” (Đại Việt thông sử).Tháng 5 năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lưu Nhân Chú được phong làm Á thượng hầu, đứng hàng thứ 5.Dịp vua Lê Thái Tổ phong con trưởng Lê Tư Tề làm Quốc vương và con thứ Nguyên Long làm Hoàng Thái tử, Lưu Nhân Chú là một trong 7 vị đại thần được mang kim sách phong cho 2 người.Năm 1431, Lưu Nhân Chú được chuyển làm Nhập nội tư khấu.Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên thay còn nhỏ, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính. Lê Sát ghen ghét Lưu Nhân Chú, ngầm sai người đánh thuốc độc giết hại ông.Năm 1437, Lê Thái Tông đã giải nỗi oan cho ông, bãi chức Lê Sát.Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm Thái phó Vinh quốc công.Cuộc đời của Lưu Nhân Chú là một hành trình gian khổ từ lúc còn nhỏ cho đến khi tham gia cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Vinh quang không phải không đến với ông. Nhưng số phận oan nghiệt đã không để cho ông phụng sự đất nước, vương triều Lê nhiều hơn nữa. Dẫu là vậy thì tài năng, công lao và lòng trung của ông thì sáng mãi, đúng như Lê Thái Tổ đã từng nhận định:"Xét... Lê Nhân Chú đấy: Tài năng như cây tùng cây bách; chất người như ngọc phan, ngọc dư. Thấy nước nhà trong con hoạn nạn; nghĩ nghiệp vua không thể thiên an. Núi Linh sơn đói khổ mấy tuần, người hằng lo lắng; xứ Ai Lao muôn phần vất vả, người chẳng tiếc thân. Cứu nguy phù suy, giành lại cơ đồ trong những ngày cháo rau cơm hẩm; trừ hung dẹp bạo, quét thanh trời đất khỏi tai ương ngựa sắt gươm vàng. Trận đánh ở Bồ Đằng, Khả Lưu như trúc chẻ tro bay; trận đánh ở Xương Giang, Chí Lăng như băng tan, ngói lở. Giúp nên nghiệp lớn, càng rõ công to sáng nghiệp là khó khăn, người đã lấy võ công mà dẹp nạn, thủ thành không phải dễ, nước cần có hiền tài để giúp phò. Vậy cho ngươi đứng đầu hàng võ trong triều kiêm coi chính sự nhà nước”.
Cuộc đời của Lưu Nhân Chú là một hành trình gian khổ từ lúc còn nhỏ cho đến khi tham gia cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Vinh quang không phải không đến với ông. Nhưng số phận oan nghiệt đã không để cho ông phụng sự đất nước, vương triều Lê nhiều hơn nữa. Dẫu là vậy thì tài năng, công lao và lòng trung của ông thì sáng mãi với non sông, đất nước.