Bán hạ Việt Nam gồm những cây Typhonium divaricatum Decne (Arum divaricatum L., Arum trilobatum Lour), Typhonium trilobatum (Schott).Cây bán hạ Trung Quốc Pinellia ternata (Thunb.) Breiter hay Pinellia tuberifera Tenore.Cây chưởng diệp bán hạ Pinellia pedatisecta (Schott).Cây bán hạ Việt Nam (Typhonium trilobatum Schott) còn gọi là củ chóc, lá ba chìa, cây chóc chuột, là một loại cỏ không có thân, có củ hình cầu đường kính tới 2cm. Lá hình tim, hay hình mác, hoặc chia 3 thùy sài 4 - 15cm rộng 3,5 - 9cm. Bông mo với phần hoa đực dài 5 - 9mm. Bông mo với phần hoa đực dài 5 - 9mm, phần tràn dài 1 7 - 27mm. Quả mọng, hình trứng dài 6mm.Cây bán hạ ở Việt Nam mọc hoang ở khắp những nơi đất ẩm ở nước ta từ Nam chí Bắc. Người ta đào rễ (củ), rửa sạch đất cát, lựa củ to (gọi là nam tinh), củ nhỏ (gọi là bán hạ). Có thể dùng tươi (thường chỉ dùng giã đắp lên nơi rắn độc cắn), thường dùng khô có chế biến. Có nhiều cách chế biến mục đích theo quan niệm Đông y để giảm bớt độ độc (tẩm cam thảo) hay tăng tác dụng chữa ho (tẩm gừng hay bồ kết). Sau đây là một số cách chế biến thường thấy:Tẩm cam thảo và bồ kết: Củ chóc (bán hạ Việt Nam) rửa sạch ngâm nước trong 2 - 3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần cho đến khi nước trong hẳn. Cứ 1kg bán hạ thêm 0,1kg cam thảo, 0,1kg bồ kết và nước cho đủ ngập rồi đun cho đến khi cạn nước, vớt ra phơi hay sấy khô. Nguyên nhân chưa rõ, nhưng ta biết cam thảo có tác dụng giảm độc, trừ ho, bồ kết cũng có tác dụng chữa ho.Tẩm gừng và phèn chua: Củ bán hạ cũng rửa sạch và ngâm nước như trên cho tới khi nước trong. Cứ 1kg bán hạ thì thêm 50g phèn chua, và 300g gừng tươi giã nhỏ thêm nước vào cho ngập. Ngâm trong 24 giờ, lẩy ra rửa sạch. Đồ chín, thái mỏng, lại tẩm nước gừng: Cứ 1kg bán hạ thêm 150g gừng tươi giã nát, thêm ít nước vắt lấy nước và cho bán hạ vào ngâm một đêm. Lấy ra sao vàng là dùng được. Phèn chua có tác dụng làm cho hết nhớt.Theo nghiên cứu, bán hạ có tác dụng chữa ho và chống nôn. Được dùng theo kinh nghiệm dân gian chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa hoặc chữa nôn trong trường hợp viêm dạ dày mãn tính. Nó còn là vị thuốc chữa ho (làm cho long đờm), chữa nhức đầu, đau dạ dày mãn tính. Ngày dùng 1,5 - 4g; có thể dùng tới liều từ 4 - 12g bán hạ đã chế biến hoặc hơn nữa. Dùng ngoài, tùy theo liều lượng và dùng tưới, giã nát đắp lên nơi đâu.Trong sách cổ ghi về tính chất và tác dụng của vị bán hạ như sau: Vị cay, ôn, có độc; có tác dụng táo thấp (làm khô ẩm thấp), hóa đờm, giáng nghịch (làm hạ hơi đưa lên) hết nôn. Dùng trong những trường hợp nôn mửa, đờm thấp, hen suyễn, đầu nhức, đầu váng, không ngủ; dùng ngoài có tác dụng tiêu thũng. Phụ nữ có thai dùng phải cẩn thận, vị bán hạ phản với ô đầu, thảo ô.Đơn thuốc có vị bán hạ ghi trong dược điển Trung Quốc 1953: Bột bán hạ 80g, bột gừng sống 50g, nước 3.000ml đun sôi và sắc cho đến khi cạ còn 1.000ml; lọc qua bông và dùng nước cất pha thêm cho dủ 1.000ml. Đơn thuốc chế biến khi cần đến. Theo dược điển Trung Quốc mỗi lần dùng 100 - 300ml, trung bình mỗi ngày dùng 200 - 600ml tương ứng với 8 - 24g hoặc 16 - 18g bán hạ. Chữa ho và nôn mửa khi có thai.Tiểu bán hạ gia phục linh thang (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh): Bán hạ 8g, phục linh 6g, sinh khương 3g, nước 300ml, sắc còn 100ml. Uống dần trong ngày chữa phụ nữ có thai, nôn mửa.Đơn khác dùng chữa hen suyễn, nặng mặt, nằm không được, muốn nôn ọe, bụng dưới nôn nao, cũng dùng chữa nôn: Bán hạ chế 40g, sinh khương 20g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Liều dùng bán hạ ở đây so với đơn tiểu bán hạ có cao hơn, nên uống từ từ, vừa uống vừa nghe, thấy chịu thì uống nữa.