Tích trữ vàng: lợi ích cá nhân, lãng phí nguồn lực
Kinhtedothi – Mặc dù tích trữ vàng đem lại lợi ích cho người dân và nhà đầu tư, nhưng xét trên khía cạnh kinh tế vĩ mô, đây có thể là sự lãng phí nguồn lực. Để nguồn lực chảy từ vàng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải pháp căn cơ là tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, phát triển các kênh tài chính an toàn như cổ phiếu và trái phiếu.
Đây là chia sẻ của TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính, Học viện Tài chính, tại diễn đàn “Thị trường Vàng Việt Nam: Thuận lợi và thách thức trong giai đoạn mới", do Báo Kinh tế & Đô thị tổ chức, chiều 24/11.
TS. Nguyễn Đức Độ chia sẻ tại diễn đàn. (ảnh: Thanh Hải)
Lượng tích trữ vàng trong dân lớn
Vàng từ lâu là kênh đầu tư truyền thống của người dân Việt Nam. Lịch sử chiến tranh kéo dài trong thế kỷ 20 cùng với lạm phát nửa cuối thập kỷ 1980 đã hình thành thói quen tích trữ vàng như công cụ bảo vệ giá trị tài sản. Trong 20 năm gần đây, giá vàng thế giới tăng mạnh khiến việc mua và nắm giữ vàng trở nên hấp dẫn. Tính từ năm 2003 đến nay, giá vàng trong nước đã tăng khoảng 20 lần, đem lại lợi nhuận trung bình 15%/năm cho người dân và nhà đầu tư.
Mặc dù chưa có thống kê chính xác, các chuyên gia đều đồng thuận rằng lượng vàng trong dân còn rất lớn. Tuy nhiên, TS. Nguyễn Đức Độ nhận định, xét về kinh tế vĩ mô, việc tích trữ vàng là sự lãng phí nguồn lực. Việt Nam vẫn là nền kinh tế đang phát triển, với vốn hạn chế và công nghệ chưa hiện đại, đặc biệt ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao, cần nguồn lực tài chính lớn. Kinh nghiệm các nước như Trung Quốc cho thấy, để tăng trưởng hai con số, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm phải đạt ít nhất 40% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ tiết kiệm/GDP của Việt Nam hiện chỉ 37,2%, còn tỷ lệ đầu tư/GDP khoảng 30–32%. Chênh lệch này cho thấy môi trường kinh doanh chưa thực sự hấp dẫn, trong khi người dân tích trữ nhiều vàng, tiền số thay vì đầu tư vào sản xuất, kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Hệ quả là nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế bị hạn chế.
Việc nắm giữ vàng còn ảnh hưởng đến lãi suất và tỷ giá. Khi nguồn lực cho tiền gửi tiết kiệm giảm, lãi suất trung và dài hạn tăng, tác động trực tiếp đến chi phí vốn của doanh nghiệp. Đồng thời, Việt Nam phải nhập khẩu vàng để đáp ứng nhu cầu trong nước, tương đương 2,5–3 tỷ USD/năm, gây áp lực lên dự trữ ngoại hối và hạn chế khả năng điều tiết tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Trong bối cảnh kinh tế có độ mở gần 200% GDP, ổn định tỷ giá là rất quan trọng để giảm rủi ro cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt khi biên lợi nhuận của doanh nghiệp còn mỏng.
Quang cảnh diễn đàn. (ảnh: Thanh Hải)
Tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng
Một trong những vấn đề trọng tâm là huy động vàng trong dân. Mặc dù lượng vàng trong dân còn rất lớn, việc huy động thông qua vay mượn gặp khó khăn do mức sinh lời của vàng trung bình 15%/năm cao hơn nhiều so với các kênh sản xuất kinh doanh. Để người dân chuyển vàng sang các kênh đầu tư khác, giá vàng thế giới cần ít nhất ổn định, không tăng mạnh. Đồng thời, Nhà nước cần cải cách thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính, công khai minh bạch thông tin trên thị trường vốn, duy trì lạm phát thấp và tỷ giá ổn định. Khi các kênh đầu tư an toàn và hấp dẫn hơn, nguồn lực tài chính sẽ chảy vào sản xuất, kinh doanh, giảm nhu cầu tích trữ vàng.
Về giá vàng trong nước, TS. Nguyễn Đức Độ cho rằng không nên đưa sát giá vàng thế giới trong bối cảnh giá vàng thế giới tăng mạnh. Việc nhập khẩu vàng để cân đối cung cầu sẽ hao hụt dự trữ ngoại hối và có thể khuyến khích người dân mua vàng nhiều hơn khi giá rẻ. Thay vào đó, nên duy trì chênh lệch giá ở mức hợp lý, vừa tiết kiệm nguồn lực, vừa hạn chế tình trạng tích trữ vàng.
Về sàn giao dịch vàng, các giao dịch vật chất trên sàn sẽ minh bạch hơn, giúp Nhà nước quản lý thị trường hiệu quả. Tuy nhiên, sàn vàng tài khoản cần thận trọng, vì có thể khiến tiền chảy từ tiết kiệm sang giao dịch vàng tài khoản vốn chỉ là “trò chơi tổng bằng 0” và không tạo ra giá trị gia tăng, làm giảm nguồn lực tài chính cho tăng trưởng kinh tế.
TS. Nguyễn Đức Độ nhấn mạnh, mặc dù mua, bán, nắm giữ vàng là quyền hợp pháp của người dân, Nhà nước không nên khuyến khích phát triển thị trường vàng. Giải pháp căn cơ là tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, minh bạch, công bằng, ổn định, phát triển các kênh tài chính an toàn như cổ phiếu và trái phiếu, thu hút nguồn lực từ vàng vào sản xuất, kinh doanh. Khi bối cảnh giá vàng thế giới thuận lợi, các kênh này sẽ cạnh tranh và thu hút nguồn lực hiệu quả.

Minh bạch thị trường vàng: Nhiều bất thường lộ diện từ dữ liệu hóa đơn
Kinhtedothi – Từ thực tiễn kiểm tra, cơ quan thuế Hà Nội phát hiện nhiều giao dịch bất thường và sai phạm trong kê khai, hạch toán. Để đảm bảo thị thị trường minh bạch và tránh thất thu ngân sách, cần sớm xây dựng khung pháp lý liên thông giữa các cơ quan quản lý, đồng thời thiết lập cơ chế kiểm soát dựa trên dữ liệu hóa đơn điện tử và giao dịch thanh toán, giúp nhận diện bất thường và quản lý hiệu quả các giao dịch vàng.

Giá vàng trong nước - thế giới, vì sao chênh lệch hàng chục triệu đồng?
Kinhtedothi - Chiều 24/11, Báo Kinh tế và Đô thị phối hợp với Hội Mỹ nghệ Kim hoàn TP Hà Nội tổ chức Diễn đàn “Thị trường vàng Việt Nam: Thuận lợi và Thách thức trong giai đoạn mới”. Diễn đàn có sự tham gia của nhiều chuyên gia kinh tế, tài chính, đại diện các cơ quan quản lý, hiệp hội và đông đảo doanh nghiệp (DN) sản xuất, kinh doanh vàng.

TS Lê Xuân Nghĩa: Cần sớm có sàn giao dịch vàng vật chất để chấm dứt tình trạng "mù mờ giá"
Kinhtedothi - TS Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh cần sớm lập sàn giao dịch vàng vật chất theo chuẩn quốc tế, nơi vàng nhập khẩu được bán sỉ công khai và doanh nghiệp mua sỉ minh bạch theo giá thế giới, nhằm giảm méo mó thị trường và hạn chế tình trạng thao túng giá.






