Theo BHXH Việt Nam, từ khi thực hiện Luật BHYT đến nay, hầu hết các cơ sở y tế công lập có chức năng KCB đều tham gia ký kết hợp đồng KCB BHYT trực tiếp với cơ quan BHXH.
Năm 2009, ngành BHXH Việt Nam ký hợp đồng với 2.176 cơ sở. Đến hết ngày 31/12/2023, số cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT là 2.897, tăng hơn năm 2009 là 809 cơ sở; trong đó số cơ sở KCB tư nhân năm 2023 là 1.106 cơ sở, tăng gấp 5 lần so với năm 2009 (175 cơ sở).
Ngoài ra, có gần 10 nghìn trạm y tế xã, phường, thị trấn cũng tham gia KCB BHYT thông qua hợp đồng do các bệnh viện huyện hoặc Trung tâm y tế hoặc cơ sở KCB được Sở Y tế giao nhiệm vụ quản lý ký với cơ quan BHXH.
Qua đó, cho thấy, mạng lưới cơ sở KCB BHYT không ngừng được mở rộng, tạo thuận lợi cho người tham gia BHYT trong công tác KCB. Vì thế, số lượt người có thẻ BHYT đi KCB tăng nhanh qua từng năm. Trong 15 năm đã có trên 2.120 triệu lượt người KCB BHYT, với tổng số tiền trên 993 nghìn tỷ đồng.
Bình quân lượt KCB BHYT mỗi năm là 141 triệu lượt/năm (tăng 59,5% so với năm 2009), với tổng chi phí KCB bình quân 66,2 nghìn tỷ đồng/năm (tăng 330% so với năm 2009). Tần suất KCB BHYT cũng tăng từ 1,77 lần/người/năm vào năm 2009 lên 1,86 lần/người/năm vào năm 2023.
Về dịch vụ kỹ thuật, thuốc, vật tư y tế trong KCB BHYT cũng không ngừng mở rộng. Hiện nay có 1.092 dịch vụ kỹ thuật được phân tuyến thực hiện tại tuyến xã. Trong danh mục tương đương hiện có 862 dịch vụ được quy định giá thanh toán BHYT.
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2018 có khoảng 411/862 dịch vụ có giá được thực hiện tại tuyến xã; năm 2022 là 478/862 dịch vụ.