Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Ứng dụng khoa học vào sản xuất thúc đẩy cạnh tranh ngành dệt may

Khắc Kiên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có mặt trên 80 nước, thị trường xuất khẩu, chủ yếu là các nước liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi ngành còn nhiều việc phải làm.

Tại Hội nghị khoa học toàn quốc về Dệt may và Da giầy lần thứ 3 do Câu lạc bộ Khoa học Dệt may và Da giầy Việt Nam tổ chức sáng 20/10, các chuyên gia cho rằng, việc ứng dụng khoa học là xu thế cần đẩy mạnh trong thời gian tới. Để làm tốt nhiệm vụ này, cần tạo ra cơ chế để cung - cầu về công nghệ gặp nhau.  

Hội nghị với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các trường đại học, cộng đồng doanh nghiệp. Ảnh: Khắc Kiên
Hội nghị với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các trường đại học, cộng đồng doanh nghiệp. Ảnh: Khắc Kiên

Hạn chế nhiều bề

Báo cáo tại hội nghị cho thấy, hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa ngành dệt may trên 48%, so với các ngành khác ở mức cao, nhưng cũng đặt ra bài toán cho nghiên cứu khoa học để tiếp tục nâng cao. 

Năng suất lao động năm 2010 với 1 lao động đạt 10.700 USD xuất khẩu, nhưng năm 2019 đã tăng lên 20.300 USD. Năng suất đã tăng 1,9 lần, trong khi lao động giảm từ 93.000 người/tỷ USD xuống còn hơn 49.000 người/tỷ USD. Điều này có sự đóng góp lớn của khoa học công nghệ (KHCN). 

TS. Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp dệt may Hà Nội chia sẻ tại sự kiện. Ảnh: Khắc Kiên
TS. Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp dệt may Hà Nội chia sẻ tại sự kiện. Ảnh: Khắc Kiên

Theo TS. Hoàng Xuân Hiệp - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp dệt may Hà Nội, để cạnh tranh, ngành dệt may có 2 công cụ chính là năng suất - chất lượng và tỷ lệ nội địa hóa cần nâng cao hơn. Thời gian tới, doanh nghiệp Việt sẽ cần thêm một công cụ nữa là xanh hóa dệt may. Các nước châu Âu đã có quy định rất rõ ràng về tỷ lệ tái chế sản phẩm… Đây là vấn đề cần nghiên cứu sâu để ngành dệt may Việt Nam tiếp cận thị trường thế giới. 

“Hiện mức độ sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0 của các doanh nghiệp dệt may vẫn ở mức trung bình với 2,73/5 điểm. Nếu không tập trung vào KHCN sẽ không nâng cao được tính cạnh tranh của ngành” - ông Hoàng Xuân Hiệp chỉ ra. Đồng thời cho rằng, các doanh nghiệp dệt may vẫn gặp khó nhất khi tiếp cận dữ liệu về nguồn cung công nghệ trong nước và quốc tế. 

Thực tế cho thấy, doanh nghiệp muốn tiếp cận công nghệ cũng không biết tìm ở đâu, và ngược lại, các trường, viện nghiên cứu khi có công nghệ cũng không biết chuyển giao cho ai. Bên cạnh đó, việc xúc tiến thị trường KHCN của ngành dệt may chưa được triển khai. Đơn cử thiếu hoạt động xúc tiến thương mại hội chợ, triển lãm, kết nối giữa doanh nghiệp dệt may với các trung tâm nghiên cứu khoa học tại trường đại học, viện nghiên cứu còn hạn chế. 

Tổng Công ty May 10 là một trong doanh nghiệp đầu tàu ứng dụng công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Ảnh: Khắc Kiên
Tổng Công ty May 10 là một trong doanh nghiệp đầu tàu ứng dụng công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Ảnh: Khắc Kiên

Ngoài ra, chính sách Nhà nước liên quan đến thương mại hóa các sản phẩm KHCN là tài sản công còn vướng mắc, như: Phải định giá tài sản công trước khi thương mại hóa; luật yêu cầu hoàn trả phần đầu tư của Nhà nước cho nghiên cứu. Các chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay, hạ tầng kỹ thuật cho các dự án công nghệ cao hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may; về hạ tầng thì cũng chưa có khu công nghiệp tầm cỡ nào. 

Đồng quan điểm, PGS. TS. Huỳnh Đăng Chính - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Bách Khoa Hà Nội cho hay, ngành dệt may đang có nhiều cơ hội để phát triển. Các cơ sở đào tạo nhân lực đã và đang nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu của ngành. Tuy nhiên, việc trao đổi thông tin, hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, doanh nghiệp còn hạn chế và cần có sự gắn kết để tạo thành một khối thống nhất trên toàn quốc. 

Giải pháp tối ưu liên kết

Tại hội nghị, các doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu, sự quan tâm đến việc nghiên cứu tập trung giải quyết những vấn đề mà đơn vị sản xuất đang phải hàng ngày đối mặt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, đón đầu những xu thế chung của những thị trường mà dệt may Việt Nam đang hướng đến. 

Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu. Ảnh: Khắc Kiên
Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu. Ảnh: Khắc Kiên

Do đó, các giải pháp công nghệ nhằm tăng cường năng lực cung cấp nguyên liệu cho sản phẩm dệt may, da giầy, đáp ứng yêu cầu xuất xứ là quan trọng. Sản xuất bền vững, đặc biệt quan tâm đến việc tái chế, tái sử dụng, kéo dài vòng đời sản phẩm dệt may, hạn chế thời trang nhanh, hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn cho ngành dệt may… 

Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Cao Hữu Hiếu cho hay, nhu cầu của doanh nghiệp luôn là cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh và quản trị nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất. Để làm được điều đó, cần sự chung tay, hợp tác rất chặt chẽ từ các nhà khoa học, trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp. Do vậy, thời gian tới cần thiết phải tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa các đơn vị nghiên cứu, đào tạo với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hoạt động nghiên cứu khoa học ngành dệt may, da giầy phát triển.

Nhà máy M2F tại Hải Phòng của Công ty Cổ phần M2 Việt Nam đã ứng dụng công nghệ với việc sản xuất tinh gọn. Ảnh: Khắc Kiên
Nhà máy M2F tại Hải Phòng của Công ty Cổ phần M2 Việt Nam đã ứng dụng công nghệ với việc sản xuất tinh gọn. Ảnh: Khắc Kiên

TS. Hoàng Xuân Hiệp cho rằng, về chính sách vĩ mô, Chính phủ xem xét và cho phép thành lập các khu công nghiệp dệt may lớn với diện tích từ 500ha trở lên, được đầu tư đồng bộ về công nghệ sản xuất và xử lý môi trường quy mô, đồng bộ. Đồng thời, thiết kế các chính sách ưu đãi thuế, vốn vay… cho hoạt động KHCN ngành dệt may. 

Ngoài ra, cần sớm có nghiên cứu, thành lập tổ chức trung gian về thị trường KHCN cho ngành dệt may, xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu, cổng thông tin về thị trường KHCN ngành dệt may. Cùng đó đánh giá nhu cầu và khả năng cung ứng công nghệ trong ngành dệt may giai đoạn 2022 - 2030.

Việc chủ động nguồn nguyên phụ liệu, sản xuất xanh sẽ giúp ngành dệt may Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường. Để hiện thực hóa được điều đó, phải đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư cho KHCN.

PGS.TS Huỳnh Đăng Chính cho rằng, quan trọng nhất vẫn là đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là nhiệm vụ hàng đầu quyết định sự phát triển bền vững của toàn ngành. 

Cùng với đó, đẩy mạnh kết nối nhà khoa học với doanh nghiệp trong triển khai các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp…

 

Việt Nam hiện sản xuất dệt may, da giầy lớn nhất thế giới, nhiều năm đóng góp vào lớn vào an sinh xã hội, chuyển đổi lao động nông thôn sang lao động công nghiệp. Hiện ngành có 800 doanh nghiệp với trên 4 triệu lao động. Song, các doanh nghiệp dệt may cần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, đảm bảo nguyên tắc xuất xứ nguyên liệu tại Việt Nam, đồng thời đảm bảo các rào cản phi thuế khác như bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội, sử dụng lao động… đáp ứng những hiệp định thương mại tự do.