Như báo Kinh tế & Đô thị đã đưa tin, ngày 16/4, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Công an tỉnh Bắc Ninh) đã tạm giữ hình sự Vũ Văn Hiếu (SN 1995, ở thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, Thuận Thành, Bắc Ninh) – đối tượng có hành vi hiếp dâm khiến nữ sinh N.T.V.A nhảy cầu tự tử.
Trước đó, hồi 8 giờ 10 phút ngày 15/4, Công an huyện Thuận Thành nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại cầu Hồ thuộc thị trấn Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh có một người nhảy cầu xuống sông Đuống tự tử.
Ngay sau khi nhận tin báo, Giám đốc Công an tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo lực lượng chức năng cùng chính quyền địa phương khẩn trương tổ chức lực lượng tìm kiếm cứu vớt. Danh tính nạn nhân là cháu N. T. V. A. (SN 2001, ở thôn Công Hà, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành), học sinh lớp 12A9 trường THPT Thuận Thành số 2. Đến 16 giờ 45 phút cùng ngày, các lực lượng đã tìm vớt được nữ sinh V. A. dưới sông Đuống.
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh và Công an huyện Thuận Thành tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và tổ chức điều tra, bước đầu đã làm rõ: Chiều ngày 14/4/2019, N. T. V. A. đi ăn hội với bạn tại thôn Tư Thế, Trí Quả, huyện Thuận Thành sau đó bị đối tượng Vũ Văn Hiếu (SN 1995 ở thôn Đồng Ngư, xã Ngũ Thái, Thuận Thành, Bắc Ninh, là bạn của chị gái con bác ruột của V. A) đưa vào nhà nghỉ Bắc Hà thuộc xã Xuân Lâm, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và có hành vi hiếp dâm.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành đã ra Quyết định tạm giữ hình sự với Vũ Văn Hiếu về hành vi “Hiếp dâm” quy định tại Điều 141, Bộ luật hình sự 2015 và đang tiếp tục phối hợp điều tra làm rõ.
Về vụ việc trên, trao đổi với phóng viên, Luật sư Nguyễn Anh Thơm (Trưởng VPLS Nguyễn Anh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết: Đây là vụ việc rất thương tâm. Nếu có căn cứ xác định cháu N. T. V. A. (SN 2001) nhảy cầu tự tự là do trước đó cháu đã bị hiếp dâm thì các đối tượng có liên quan sẽ bị xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.
“Trước tiên, CQĐT cần xác định đối tượng đã có hành vi hiếp dâm cháu N.T.V.A . Hiếp dâm là hành vi của một người hoặc một số người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân”, luật sư Thơm phân tích.
Cũng theo luật sư, căn cứ vào lời khai của đối tượng, lời khai của các đối tượng liên quan, nhân chứng, kết quả giám định pháp y tử thi (có mẫu tinh dịch nam trong bộ phận sinh dục, các vết xây sát trên cơ thể…) nếu có đủ cơ sở xác định đối tượng thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn cháu N. T. V. A. thì đối tượng nào tham gia sẽ phải chịu trách nhiệm về tội Hiếp dâm theo Điều 141 BLHS 2015.
Trong trường hợp, CQĐT có có căn cứ xác định sau khi cháu N.T.V.A bị đối tượng thực hiện hành vi hiếp dâm đã dẫn tới hoảng loạn về tâm lý tự tử nhảy cầu thì đối tượng phải chịu trách nhiệm về cái chết của nạn nhân theo tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm d, Khoản 3 Điều 141 BLHS 2015 với khung hình phạt cao nhất đến Chung thân. Việc chứng minh nạn nhân tự sát vì nguyên nhân tâm lý hoảng loạn bị tội phạm xâm hại tình dục thì CQĐT cần phải làm rõ qua các chứng cứ như: thư tuyệt mệnh, tin nhắn, điện thoại tâm sự với bạn bè, gia đình, lời chia sẻ trên zalo, facebook…(nếu có)
Luật sư Nguyễn Anh Thơm đưa ra quan điểm: Vụ án này cần làm rõ vai trò của các đối tượng khác liên quan trong buổi liên hoan sinh nhật. Nếu đối tượng nào có hành vi giúp sức, tạo điều kiện cho đối tượng hiếp dâm như: chuốc rượu cho nạn nhân say thì sẽ phải chịu trách nhiệm đồng phạm về tội Hiếp dâm. Mặt khác, nếu đối tượng nào là bạn của đối tượng hiếp dâm nữ sinh biết đối tượng thực hiện hành vi đồi bại mà không can ngăn hoặc trình báo với các Cơ quan pháp luật thì sẽ bị xử lý về tội Không tố giác tội phạm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 390 BLHS 2015.
Điều 141. Tội Hiếp dâm 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên;đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; i) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; k) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó. 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 390. Tội không tố giác tội phạm 1. Người nào biết rõ một trong các tội phạm quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 14 của Bộ luật này đang được chuẩn bị hoặc một trong các tội phạm quy định tại Điều 389 của Bộ luật này đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.” |