70 năm giải phóng Thủ đô

Xét xử nữ Việt kiều Vũ Bảo Trinh lừa đảo hơn 309 tỷ đồng

Tân Tiến
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Sau khi điều tra bổ sung, số tiền nữ Việt kiều Vũ Bảo Trinh lừa đảo được xác định hơn 309,8 tỷ đồng, chứ không phải hơn 279,3 tỷ đồng.

Ngày 28/12, TAND TP Hồ Chí Minh đưa vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ra xét xử sơ thẩm đối với 3 bị cáo: Vũ Bảo Trinh (SN 1973, Việt kiều Mỹ, cư trú tại số 6-8 Nguyễn Gia Trí, phường 25, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh); Tô Văn Chí Tâm (SN 1983, chồng của Trinh) và Hoàng Thái Anh (SN 1972). Trong vụ án này, Vũ Bảo Trinh được xác định cầm đầu.

Bị cáo Vũ Bảo Trinh cùng đồng phạm tại phiên tòa ngày 28/12. Ảnh: Tân Tiến.
Bị cáo Vũ Bảo Trinh cùng đồng phạm tại phiên tòa ngày 28/12. Ảnh: Tân Tiến.

Dự án Chung cư La Bonita được Công ty TNHH Bất động sản Nam Thị (Công ty Nam Thị) thế chấp cho Công ty Tài chính TNHH MTV Cao su Việt Nam (Công ty Tài chính Cao Su) để vay 95 tỷ đồng, bao gồm toàn bộ khu đất tại số 6-8 đường D2 và tài sản hình thành trên đất (kể cả tài sản hình thành trong tương lai).

Hợp đồng hai bên đã ký quy định: trong thời gian thế chấp không được sự đồng ý bằng văn bản của bên nhận thế chấp thì không được chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn hoặc không được dùng tài sản để đảm bảo  bảo cho nghĩa vụ khác. Ngày 22/9/2015, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định 1634/QĐ-TTg, về việc làm sáp nhập Công ty Tài chính Cao su vào công ty mẹ, do đó hiện nay Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam tiếp nhận khoản  Công ty Tài chính Cao su cho vay đối với Công ty Nam Thị.

Mặc dù chưa được Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam đồng ý cho chuyển nhượng, thế chấp. Tuy nhiên, Vũ Bảo Trinh chủ mưu, chỉ đạo Tô Văn Chí Tâm, Hoàng Thái Anh ký hợp đồng mua bán căn hộ, sàn thương mại (CH-STM) thuộc dự án Chung cư La Bonita cho nhiều người, trong đó có nhiều CH-STM, với mỗi CH-STM nhưng được ký bán cho nhiều người. Vũ Bảo Trinh chỉ đạo thay đổi tên, ký hiệu căn hộ; thay đổi chủ sở hữu, người đại diện doanh nghiệp, nhằm để khách hàng lầm tưởng là mua bán căn hộ, sản phẩm thương mại khác nhau, cũng như để đối phó khi bị tranh chấp, khiếu kiện bằng cách để chủ sở hữu mới tiếp tục thỏa thuận với khách hàng.

Vũ Bảo Trình khai Trinh có sử dụng cùng một căn hộ để ký hợp đồng bán cho nhiều người, thực chất là hợp lý đồng giả cách cho vay tiền. Tuy nhiên, quá trình điều điều tra người bị hại đã tố cáo và nộp tài liệu xác định tất cả các hợp đồng mua bán căn hộ là thật. Sau khi khách hàng chuyển tiền mua căn hộ, Trinh chỉ đạo nhân viên làm hồ sơ để hợp thức hóa bằng các chứng từ vay vốn và trả nợ vốn vay giữa Công ty Nam Thị, Công ty Kiến Quân và bị cáo Tô Văn Chí Tâm.

Thực tế việc luân chuyển tiền hoàn toàn không qua quỹ tiền mặt của Công ty Nam Thị, mà được rút tiền mặt đưa cho Vũ Bảo Trinh để chiếm đoạt. Trong đó, có 50 cá nhân, tổ chức tố cáo Vũ Bảo Trinh và đồng phạm đã đại diện Công ty Nam Thị, ký kết 78 hợp đồng mua căn hộ với các cá nhân/tổ chức, với tổng giá trị 369.962.913.684 đồng và đã thu (hoặc đổi tài sản, hoặc vay nợ, thế chấp)  của các tổ chức, cá nhân này trị giá tương đương số tiền 332.576.467.027 đồng. Trong đó, đã trả lại 22.760.000.000 đồng, hiện còn chiếm đoạt số tiền là 309.816.467.027 đồng.

Các bị cáo Hoàng Thái Anh, Tô Văn Chí Tâm đã có hành động giúp sức cho Vũ Bảo Trinh lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc đứng tên đại diện Công ty Nam Thị, trực tiếp ký hợp đồng mua bán trùng CH-STM Chung cư La Bonita cho nhiều người và sử dụng các thủ đoạn gian dối để khách hàng lầm tưởng là mua bán CH-STM khác nhau, theo đó giúp sức cho Vũ Bảo Trinh chiếm đoạt số tiền mua bán căn hộ.

Vũ Bảo Trinh trực tiếp ký 12 đồng bán CH-STM cho 16 cá nhân, tổ chức trị giá 84.508.609.000 đồng, Công ty Nam Thị đã thu tiền (hoặc đổi tài sản, hoặc vay nợ, thế chấp) tương đương giá trị 84.133.381.727 đồng, đã trả lại 1,6 tỷ đồng, hiện còn lại 82.533.381.727 đồng. Trong đó có 2 CH-STM do một mình Trinh ký hợp đồng bán trùng cho 4 người trị giá 48.028.609.000 đồng, Công ty Nam Thị đã thu 48.052.381.727 đồng.

Đối với Tô Văn Chí Tâm đại diện Công ty Nam Thị, trực tiếp ký 17 hợp đồng bán CH-STM cho 17 cá nhân, tổ chức trị giá 129.203.298.000 đồng, Công ty Nam Thị đã thu tiền (hoặc đổi tài sản, hoặc vay nợ, thế chấp) tương đương số tiền của mỗi CH-STM là 123.565.294.500 đồng, đã trả lại 20 tỷ đồng, hiện còn chiếm đoạt 103.565.294.500 đồng. Trong đó có 3 CH-STM do một mình Tâm ký 6 hợp đồng bán trùng cho 4 người trị giá 54.733.100.000 đồng, Công ty Nam Thị đã thu 54.027.219.500 đồng.

Còn Hoàng Thái Anh đại diện Công ty Nam Thị, trực tiếp ký 49 hợp đồng bán CH-STM cho 39 cá nhân, tổ chức trị giá 156.251.006.684 đồng. Công ty Nam Thị đã thu tiền (hoặc đổi tài sản, hoặc vay nợ, thế chấp) tương đương số tiền của mỗi CH-STM có trị giá 124.877.790.800 đồng, đã trả 1,160 tỷ đồng, hiện còn chiếm đoạt 123.717.790.800 đồng. Trong đó có 7 CH-STM do một mình Hoàng Thái Anh ký 15 hợp đồng bán trùng cho 14 người trị giá 40.836.253.684 đồng, Công ty Nam Thị đã thu 33.597.574.924 đồng, và đã trả lại 360 triệu đồng.

Toàn bộ số tiền nêu trên đã được Vũ Bảo Trinh sử dụng các thủ đoạn gian dối chuyển dòng tiền và rút ra chiếm đoạt. Hành vi của các bị là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cần thiết phải xử nghiêm. Trong quá trình điều tra, các bị cáo nhiều lần thay đổi lời khai, gây khó khăn cho công tác điều tra.

Trước đó, tại phiên tòa diễn ra hồi tháng 3/2023, HĐXX đã trả hồ sơ để Viện KSND cùng cấp điều tra bổ sung. Vì tại phiên tòa này, Hoàng Thài Anh cho rằng còn nguồn tiền khác ở tỉnh Đồng Nai, đồng thời lời khai của nhiều nạn nhân mâu thuẫn với nhau.

 

Sau đó, cơ quan điều tra đã điều tra bổ sung nhiều nội dung, như: Vũ Bảo Trinh cùng đồng phạm lừa tổng cộng bao nhiêu nạn nhân; cần làm rõ nguồn tiền, dòng tiền mà Vũ Bảo Trinh và đồng phạm chiếm đoạt của những bị hại được sử dụng như thế nào, có liên quan đến việc chuyển nhượng các doanh nghiệp, bao gồm: Công ty CP Đầu tư bất động sản Sài Gòn - Hà Nội, Công ty CP sữa chua Việt Nam Penguins Tuti Frutti, Công ty CP đầu tư Sài Gòn Hà Nội và Công ty TNHH xây dựng ESB, để có căn cứ kê biên tài sản hoặc buộc nộp lại số tiền này để đảm bảo bồi thường cho bị hại.