Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu |
Hệ lụy tất yếu của xung đột thương mại Mỹ - Trung
Trung Quốc vốn là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất từ trước đến nay của Việt Nam. Tuy nhiên, từ đầu năm 2019, lượng nông sản xuất khẩu sang thị trường này đang sụt giảm mạnh. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, thưa ông?
- Có 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất, trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, Trung Quốc giảm lượng xuất khẩu sang Mỹ do Mỹ áp thuế 300 tỷ USD lên hàng hóa của nước này. Với bối cảnh hiện tại đang dư thừa sản phẩm nông nghiệp, Trung Quốc không có nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam nhiều như trước đây, dẫn đến việc giảm lượng xuất khẩu nông sản của ta sang thị trường này.
Thứ hai, do tỷ giá của đồng Nhân dân tệ xuống thấp so với đồng USD, trong khi giá trị của đồng Việt Nam so với USD thì giữ ở mức ổn định. Đồng nghĩa với đồng Nhân dân tệ đang giảm giá trị so với đồng Việt Nam, điều này khiến hàng nông sản Việt Nam xuất sang Trung Quốc đắt đỏ hơn dẫn đến giảm lượng xuất khẩu nông sản của nước ta sang thị trường này.
Từ tháng 6/2019, Trung Quốc đã chính thức thay đổi chính sách nhập khẩu đối với nông sản Việt Nam, đó là chuyển từ nhập khẩu tiểu ngạch sang nhập khẩu chính ngạch. Kèm theo đó, siết chặt biện pháp quản lý chất lượng, truy xuất ngồn gốc đối với nông sản Việt. Ông đánh giá như thế nào về mức độ ảnh hưởng của chính sách này đối với các mặt hàng nông sản Việt Nam?
- Theo tôi tất cả các mặt hàng nông sản của nước ta đều chịu ảnh hưởng. Chính sách của Trung Quốc là đang siết chặt nhập khẩu các mặt hàng nông sản của ta và những biện pháp họ đưa ra mang tính kỹ thuật đó là những yêu cầu về vệ sinh ATTP, chất lượng… buộc hàng hóa nhập khẩu phải đáp ứng với những tiêu chí này.
Có nghĩa là Trung Quốc đang dùng rào cản về kỹ thuật để giảm lượng nhập khẩu nông sản từ Việt Nam; đồng thời, chuyển từ tiểu ngạch sang chính ngạch để họ dễ kiểm soát hơn. Việc làm này thể hiện rõ ràng mục đích Trung Quốc muốn giảm lượng nhập khẩu nông sản từ Việt Nam.
Nhiều ý kiến cho rằng, việc thay đổi chính sách nhập khẩu là một trong những động thái Trung Quốc muốn làm khó cho nông sản Việt Nam. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
- Tôi nghĩ động thái này xuất phát từ mục đích Trung Quốc muốn hàng nội địa của họ được sử dụng nhiều hơn bởi họ đang gặp vấn đề về xuất khẩu. Hay có thể nói là họ đang dư cung đối với nhiều mặt hàng nên bắt buộc phải dùng mức tiêu thụ nội địa để tiêu thụ sản lượng hàng hóa dư. Vì vậy, họ giới hạn đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam để thực hiện mục đích nêu trên là điều dễ hiểu.
Vấn đề đáng lưu tâm là việc Trung Quốc nâng yêu cầu về chất lượng, vệ sinh ATTP, truy xuất nguồn gốc… giúp cho họ nhập khẩu các mặt hàng chất lượng tốt hơn và đúng với thông lệ quốc tế. Việc Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ đối với hàng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam mặc dù là biện pháp mang tính đối phó tình thế nhưng cũng mang lại lợi ích lâu dài cho quốc gia này.
Xem xét giảm giá VND
Theo ông, liệu các biện pháp giới hạn nhập khẩu hàng Việt Nam vào Trung Quốc có được nới lỏng trong thời gian tới?
- Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung càng ngày càng leo thang mặc dù trước truyền thông quốc tế cả hai bên đều đưa ra nhiều tín hiệu tích cực nhưng thực chất quan hệ đôi bên càng ngày càng đi vào bế tắc. Thực tế cho thấy, Trung Quốc đang gặp khó khăn trong vấn đề phát triển kinh tế, việc đối đầu với Mỹ là rất bất lợi với Trung Quốc nên điều họ có thể làm trong giai đoạn này là đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa trong nước và hạn chế nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Câu chuyện này không chỉ xảy ra trong năm nay mà sẽ kéo dài hết năm 2020.
Tuy nhiên, sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, nếu ông Donald Trump tái đắc cử thì tình hình có thể thay đổi. Hoặc nếu ông Donald Trump thất cử, đảng Dân chủ lên ngôi thì vấn đề hòa giải giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ dễ xảy ra hơn, từ đó, các biện pháp hạn chế xuất khẩu hàng Việt Nam của Trung Quốc có thể được nới lỏng.
Theo nhận định của ông thì diễn biến của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang ngày càng phức tạp và vượt quá dự báo của các cơ quan chức năng. Vậy, có giải pháp nào để ứng phó trước tình hình này?
- Nếu muốn tiếp tục duy trì xuất khẩu sang Trung Quốc thì hàng nông sản của chúng ta phải đáp ứng yêu cầu về vệ sinh y tế, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ… Bên cạnh đó, chúng ta phải tìm kiếm, khai thác các thị trường khác như: Đông Nam Á, châu Phi, châu Mỹ nhằm phân bổ rủi ro cũng như bù trừ việc mất thị phần tại Trung Quốc.
Đối với nông dân, DN Việt cần phải hiểu đối tác nước ngoài họ cần những gì để đáp ứng cho chuẩn. Về phía Chính phủ, nên nghiên cứu, xem xét để cho Đồng Việt Nam (VND) giảm giá trong biên độ phù hợp, nếu VND cứ giữ đúng giá như hiện tại thì gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng hóa Việt Nam bán sang Trung Quốc sẽ đắt đỏ hơn. Theo tôi, việc giảm giá VND ở mức độ cả năm khoảng 3% là phù hợp.
Thay đổi để thích ứng thị trường
Ông có khuyến nghị nào dành cho nông dân và DN Việt giúp họ vượt rào cản, tiếp tục duy trì xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc?
- Trước hết, các bộ, ngành liên quan đến xuất khẩu cần phải nắm rõ được tình hình hiện tại và yêu cầu của các nước nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt là Trung Quốc với những rào cản họ đang giăng ra. Để vượt qua được những rào cản này, cả người nông dân và DN cần phải nắm bắt để đáp ứng yêu cầu thị trường, đồng thời nỗ lực nhiều hơn trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm.
Đối với nông sản xuất khẩu đều phải đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Hiện, hàng Việt Nam đã thâm nhập đươc một số thị trường trên thế giới, song còn rất nhiều thị trường đang ngăn chặn hàng nông sản của Việt Nam vì lý do chất lượng, vệ sinh ATTP… chưa đạt tiêu chuẩn nên bắt buộc nông dân, DN phải hiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn này một cách toàn vẹn hơn.
Phải chăng, thách thức siết chặt chính sách nhập khẩu nông sản của Trung Quốc cũng là cơ hội để Việt Nam thay đổi tư duy và hành động trong xuất khẩu hàng hóa ra thế giới?
- Chính xác! Việt Nam là nước xuất khẩu gạo, cà phê, hồ tiêu, chè rất lớn trên thế giới, song thương hiệu “Made in Vietnam” trên thị trường nông sản thế giới vẫn chưa phổ biến. Hay nói cách khác, xuất khẩu của Việt Nam tốt về số lượng nhưng chưa đạt yêu cầu về chất lượng. Do đó, chúng ra cần phải nâng cao chất lượng đối với hàng nông sản xuất khẩu, không những đáp ứng thị trường Trung Quốc mà còn đáp ứng các thị trường khác, đặc biệt là các thị trường mà nước ta ký hiệp định thương mại tự do là CPTPP và EVFTA.
Với những yêu cầu thương mại cấp cao hơn, chắc chắn chất lượng hàng hóa Việt Nam phải được thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thế giới.
Mặt khác, trong bối cảnh Trung Quốc buộc chúng ta phải nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu nông sản không chỉ đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của Trung Quốc mà còn giúp cho Việt Nam cải tiến được chất lượng hàng nông sản xuất khẩu ra thế giới, để thế giới biết nhiều hơn đến những sản phẩm mang thương hiệu “Made in Vietnam”.
Xin cảm ơn ông!
"Gia nhập sân chơi CPTPP, hàng hóa nước ngoài đổ bộ vào Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, nhất là hàng giá rẻ từ Trung Quốc. Điều này buộc Việt Nam phải tăng cường tiêu thụ nội địa bằng các biện pháp nâng sức mua của người tiêu dùng. Cùng với đó, nâng chất lượng của hàng nội địa nhằm nâng cao sức cạnh tranh đối với hàng nhập khẩu. Việc hàng hóa của Trung Quốc và khối các nước thuộc Hiệp định CPTPP tràn vào Việt Nam sẽ đẩy một số DN nội địa vào cảnh dần mất thị phần. Đây là rủi ro lớn đối với thị trường Việt Nam. Do đó, Chính phủ cần tính toán đến các DN nhập khẩu và luôn theo sát diễn biến thị trường thế giới để có kế hoạch ứng phó phù hợp." - Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu |