Vợ chồng Đỗ Đình Thiện và Trịnh Thị Điền: Từ đảng viên Cộng sản đến nhà đại tư sản yêu nước
Ông Đỗ Đình Thiện (1904 - 1972) sinh trưởng trong một gia tộc nổi tiếng ở Hà Nội. Ông từng bị đuổi học vì tham gia phong trào bãi khóa để tang cụ Phan Chu Trinh. Năm 1927, ông sang Pháp du học. Tại đây, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia các hoạt động của người Việt yêu nước ở Pháp. Năm 1931 ông bị cảnh sát Pháp bắt, bỏ tù 4 tháng và trục xuất về nước vì tội in truyền đơn yêu nước để gửi về nước.
Bà Trịnh Thị Điền (1912 - 1996) sinh ra tại Hà Nội. Năm 1929, bà gia nhập Tân Việt cách mạng đảng. Năm 1930, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương thành lập, bà hoạt động ở Hải Phòng, Quảng Ninh. Tháng 2/1931, bà bị bắt giam nhưng tháng 11/1931 thực dân Pháp phải thả vì bà không khai. Ra tù, bà vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng.
Năm 1932, ông bà kết hôn. Là Đảng viên cộng sản, bị chính quyền quản thúc nên ông bà quyết định chuyển sang làm kinh tế để nuôi sống gia đình và ủng hộ cách mạng khi có cơ hội. Do có tài kinh doanh, có quyết tâm, ông bà đã sớm trở nên giàu có nổi tiếng Hà Nội với tiệm tơ Cát Lợi (54 Hàng Gai - Hà Nội), nhà máy dệt ở Gia Lâm (Hà Nội), đồn điền Chi Nê (Hòa Bình).
Trong các thập niên 1930 - 1940, cửa hàng kinh doanh tơ lụa ở số 54 Hàng Gai của ông bà là cơ sở hoạt động bí mật của cán bộ nội thành Hà Nội.
Trong những năm 1945 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ đã từng nghỉ tại ngôi nhà này.
Gia đình ông Thiện, bà Điền là một trong những nhà tư sản đã từ sớm có nhiều đóng góp vật chất, tài chính với số lượng lớn cho Đảng và Chính phủ. Năm 1943, ông bà ủng hộ Đảng 30.000 đồng Đông Dương; đầu năm 1945, tiếp tục ủng hộ Đảng 100.000 đồng Đông Dương.
Hưởng ứng Tuần lễ Vàng và xây dựng Quỹ Độc lập, ông bà Đỗ Đình Thiện không chỉ vận động tầng lớp tư sản, thương nhân tham gia ủng hộ đóng góp mà còn đi đầu ủng hộ 100 lạng vàng. Ông Đỗ Đình Thiện còn mua đấu giá bức tranh Chủ tịch Hồ Chí Minh với giá 1 triệu đồng Đông Dương để tặng Ủy ban hành chính TP Hà Nội.
Ông còn bỏ tiền ra mua Nhà máy in Taupin của chủ Pháp để hiến cho Chính phủ làm nơi in tiền; sau đó lại mua đất và cơ xưởng trong đồn điền Chi Nê để di chuyển nhà máy in lên đây. Sau này ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh - Tài của Đảng. Năm 1946, ông được cử làm thư ký riêng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến Người làm thượng khách của nước Pháp.
Ông Trịnh Văn Bô: Từ chủ cửa hiệu Phúc Lợi đến Chủ tịch Ngân hàng Công thương
Vợ chồng ông Trịnh Văn Bô và bà Hoàng Thị Minh Hồ là chủ hiệu tơ lụa Phúc Lợi nổi tiếng làm ăn trọng tín và giàu có ở Hà Nội từ những năm 1930 - 1940. Ông bà còn nổi tiếng bởi tấm lòng nhân ái, siêng năng làm từ thiện.
Từ cuối năm 1944, ông bà và người con cả đã tham gia Việt Minh và hoạt động rất tích cực.
Sau Cách mạng tháng Tám, ngôi nhà ở số 48 Hàng Ngang (Hà Nội) của ông bà Trịnh Văn Bô được chọn làm nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo cách mạng. "Tuyên ngôn độc lập" đã được Người viết ra tại đây.
Gia đình ông Trịnh Văn Bô đã đem hết công sức, tài sản ra ủng hộ cách mạng. Trong vòng ba tháng, tính từ cuối tháng 3/1945, gia đình ông bà đã ủng hộ cho Việt Minh 7 vạn đồng và Hội Phụ nữ cứu quốc 1,5 vạn, tất cả là 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương đương với 212,5 lạng vàng.
Sau Cách mạng tháng Tám, vợ chồng ông bà được tiến cử vào Ban vận động Quỹ Độc lập. Bà Hoàng Thị Minh Hồ đã ủng hộ quỹ tiếp 20 vạn đồng, tương đương với 500 lạng vàng và vận động thêm cho quỹ được hơn 1 triệu đồng Đông Dương.
Là thành viên cốt cán trong Ban vận động Tuần lễ Vàng, ông bà đi vận động mọi người ủng hộ được hơn 1.000 lạng vàng. Riêng ông bà tiếp tục đóng góp thêm 103 lạng, cụ thân sinh bà Hoàng Thị Minh Hồ lúc đó đã 85 tuổi ủng hộ 14 lạng.
Cộng lại, cả tiền và vàng, gia đình ông bà đã đóng góp cho tài chính cách mạng 5.147 lạng vàng. Nhưng, đúng như bà Hoàng Thị Minh Hồ nói: "Tiền ủng hộ nhiều như vậy, thế nhưng cái quý giá nhất tôi nghĩ không phải là số tiền đó mà chính là việc chúng tôi đã bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh trong suốt một tháng ba ngày và cả Thường vụ đi về, làm việc ở nhà tôi mà không xảy ra sự cố nào".
Gia đình ông bà còn dồn rất nhiều tâm lực để chuẩn bị cho Lễ tuyên ngôn độc lập. Chính ông bà là người chuẩn bị y phục cho lễ ra mắt của Chính phủ lâm thời trong ngày lễ.
Từ tháng 3/1945 đến hết tháng 5/1946, hầu hết mọi chi tiêu, ăn mặc, tiếp khách của Đảng và Việt Minh, tiếp đó là Chính phủ đều do gia đình ông bà đài thọ. Chính thế mà, sau này người Pháp đã ví bà Hoàng Thị Minh Hồ là Bộ trưởng Tài chính của Việt Minh.
Tháng 10/1945, ông Trịnh Văn Bô và một số nhà công thương trong Công thương Cứu quốc đoàn ở Hà Nội còn thành lập Công ty Ngũ cốc dưới dạng công ty cổ phần, để khai thác nguồn thóc gạo ở các nơi về tiếp tế cho Hà Nội, quân đội và một số vùng bị lụt, thiếu đói.
Cùng thời gian trên, ông Trịnh Văn Bô đã cùng ông Đỗ Đình Thiện và một số nhà tư sản khác xây dựng Việt Nam Công thương ngân hàng do ông Trịnh Văn Bô làm Chủ tịch nhằm mục đích điều phối công tác tín dụng, thay thế cho Ngân hàng Đông Dương của Pháp.
Ông Ngô Tử Hạ: Từ ông chủ ngành in đến chủ trì phiên họp đầu tiên của Quốc hội
Là giáo dân quê ở Kim Sơn, Ninh Bình, ông Ngô Tử Hạ lên Hà Nội làm thuê cho nhà in Ideo của Pháp từ năm 17 tuổi. Với ý chí làm giàu, làm chủ, ông kiên nhẫn học nghề rồi đứng ra mở xưởng. Từng bước một, tiết kiệm để tích lũy, luôn đầu tư trang bị thiết bị và công nghệ hiện đại, ông trở thành một ông chủ lớn của ngành in lúc bấy giờ. Là người yêu nước, từ trước cách mạng, ông đã giúp các trí thức yêu nước in ấn sách báo. Ông bí mật ủng hộ Việt Minh hàng tạ chữ kẽm để in tài liệu, truyền đơn…
Cách mạng tháng Tám thành công, ông nhanh chóng tham gia các hoạt động của Việt Minh và Chính phủ, trở thành người bạn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc đầu tiên là ông đã chọn ngày 2/9 để làm Lễ tuyên ngôn độc lập khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tham vấn vì hôm đó là chủ nhật, mọi người được nghỉ nên sẽ tham gia dự lễ đông đảo.
Ông còn nhiệt thành tham gia các hoạt động cứu đói. Tại lễ cầu siêu nạn nhân của nạn đói ông đã kéo xe quanh hồ Hoàn Kiếm để vận động mọi người góp gạo.
Đóng góp quan trọng nhất của ông là đã in sách báo, tài liệu truyền đơn cổ động của Việt Minh, Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, in Tuyên ngôn độc lập và in sách miễn phí phục vụ phong trào bình dân học vụ.
Đặc biệt nhất, ông đã in những tờ giấy bạc đầu tiên của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để ổn định tình hình tài chính và đời sống xã hội, thống nhất tiền tệ, khẳng định chủ quyền quốc gia.
Ông Ngô Tử Hạ được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I và Ban Thường trực Quốc hội. Là đại biểu cao tuổi nhất, ông đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Quốc hội (2/3/1946) và được Quốc hội suy tôn là Chủ tịch Đại hội đồng.
Kháng chiến bùng nổ, ngay trong đêm 19/12/1946, nhà in Ngô Tử Hạ ở Hà Nội đã bị quân Pháp phun xăng đốt cháy. Ông cùng gia đình tản cư về quê; sau phải sang Thụy Sĩ cư trú vì giặc Pháp tìm mọi cách ép ông phải theo chúng.
Sau Hiệp định Geneve, ông Ngô Tử Hạ trở về nước cùng phái đoàn Chính phủ.
Ông tiếp tục công việc trong Ban Thường trực Quốc hội khóa I và được bầu làm ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.
Năm 1960, ông đã hiến hầu hết bất động sản của gia đình cho Nhà nước với hơn 5.000m2 nhà đất, chỉ giữ lại 200m2 để ở và làm nơi thờ tự.
Trên đây chỉ là ba tấm gương trong số rất nhiều các nhà tư sản dân tộc đã nhiệt thành tham gia và đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ. Tinh thần ấy đã tiếp tục được phát huy trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và nhiều chặng đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.