Vai trò của văn hóa chưa được xác định đúng tầm
Văn hóa là linh hồn, cốt lõi định hình bản sắc dân tộc, nền tảng cho sự phát triển trường tồn của dân tộc. Chính vì vậy, từ Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), Đảng đã khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”.
Tiếp đó, Nghị quyết T.Ư khóa XI đã khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển; phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Theo lãnh đạo Bộ VHTT&DL, tuy đã có sự phát triển về nhiều mặt, song so với kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, thì thành tựu trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng; chưa đủ sức tạo ra cú hích đủ mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế này xuất phát từ nhận thức và quyết tâm chính trị của một số cấp ủy Đảng, chính quyền về vai trò, nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam tuy đã được nâng lên so với trước nhưng chưa đồng đều, chưa đầy đủ, sâu sắc.
“Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, có lúc có nơi còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần” - lãnh đạo Bộ VHTT&DL nhận định.
Cùng với đó, nhận thức xã hội về di sản văn hóa chưa thật sự sâu sắc, toàn diện, nhất là trong việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Một số ít địa phương, đơn vị chưa chấp hành tốt pháp luật về di sản văn hóa, chưa quan tâm đầu tư kinh phí đúng mức cho hoạt động tu bổ di tích dẫn đến tình trạng di tích bị xuống cấp, hư hỏng, ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người dân. Ngoài ra, hệ thống thiết chế văn hóa hiện có tại một số địa phương chưa đồng bộ, thiếu kinh phí hoạt động, hiệu quả chưa cao.
Với lĩnh vực văn học nghệ thuật, công tác quản lý Nhà nước cũng còn bất cập, thiếu những tác phẩm có giá trị tư tưởng ngang tầm với thực tiễn sinh động và thành quả to lớn của sự nghiệp đổi mới đất nước. Theo nhận định của các chuyên gia, đầu tư từ ngân sách cho ngành văn hóa ở hầu hết các địa phương, nhất là các tỉnh, TP vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ còn rất thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Trong khi đó, huy động các nguồn vốn xã hội hóa còn hạn chế; việc xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa chậm, một số chính sách đã ban hành khó áp dụng, vận dụng trong thực tiễn...
Hiện nay, tính dàn trải theo khu vực hành chính của nhiều thiết chế văn hóa từ T.Ư cho đến xã, thôn về một mặt tạo điều kiện cho sự thụ hưởng của người dân, nhưng mặt khác lại làm phân tán nguồn lực khiến cho hiệu quả hoạt động của mỗi thiết chế văn hóa chưa cao do chưa được đầu tư đúng mức và đầy đủ.
Trong bối cảnh kinh tế chưa thật sự phát triển mạnh, thì nguồn lực cho văn hóa vẫn còn bị hạn chế và đây là một thách thức chưa dễ vượt qua trong Kỷ nguyên mới này.
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương
Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam
Chia sẻ với Kinh tế & Đô thị, GS.TS Phạm Hồng Tung - Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá, thách thức lớn nhất hiện nay là chênh lệch về năng lực hưởng thụ văn hóa, thiết chế văn hóa, sản phẩm văn hóa giữa các vùng miền (thành thị và vùng sâu, xa).
Theo GS.TS Phạm Hồng Tung, thời gian qua, một số địa phương chưa thực sự coi trọng và quan tâm xứng tầm về văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị - xã hội là do các hạn chế, khiếm khuyết, thậm chí do cả sai phạm lớn trong phát triển văn hóa.
“Nghị quyết của Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Thế nhưng, làm thế nào để phát triển văn hóa ngang hàng với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội thì chưa có hướng dẫn cụ thể” - GS.TS Phạm Hồng Tung nói.
Rào cản về cơ chế, nguồn nhân lực
Trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển công nghiệp văn hóa có vai trò quan trọng, trở thành động lực nội sinh góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp văn hóa vẫn còn không ít rào cản, thách thức.
Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Trần Thị Diệu Thúy chia sẻ, nhiều tiềm năng, thế mạnh của địa phương chưa được phát huy tối đa. Lực lượng lao động chưa được tiếp cận các kỹ năng và chuyên môn phù hợp để thích ứng, vận hành hiệu quả các mô hình tổ chức cũng như kinh doanh mới trong ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách, ưu đãi về thuế… chưa tạo động lực để thu hút DN đầu tư phát triển vào lĩnh vực văn hóa.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, nhiều vấn đề trong thể chế, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực văn hóa cần được tiếp tục hoàn thiện như: chính sách và pháp luật về thuế trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm nghệ thuật và thị trường, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Song song với đó, hành lang pháp lý để thúc đẩy sự tham gia của những đối tác và nguồn lực vào phát triển văn hóa cũng cần được hoàn chỉnh, như vấn đề hợp tác công tư trong văn hóa chưa được đề cập đến trong Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Một vấn đề nữa là, việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành T.Ư về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ có lúc, có nơi còn chậm, chưa đồng bộ.
“Chúng ta chưa có chính sách đột phá trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ văn nghệ sĩ tài năng; chưa thu hút được người có năng lực vào các cơ quan tham mưu, cơ quan hoạch định chính sách cho văn hóa nghệ thuật” - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương nhận định.
Cũng liên quan đến vấn đề này, lãnh đạo Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VHTT&DL) cho rằng, ngành đang có khoảng trống trong đầu tư cho nguồn nhân lực, gồm cả về con người và nguồn lực kinh tế. Do đó, cần xây dựng thể chế để phát triển nguồn nhân lực, xây dựng cơ chế đặc thù cho văn nghệ sĩ và trong đào tạo văn hóa nghệ thuật. Đồng thời cần có cơ chế, chính sách xã hội hóa trong văn hóa.
Lãnh đạo Cục Văn hóa cơ sở lấy ví dụ, với hệ thống thiết chế văn hóa, hiện nay tại các trung tâm văn hóa mỗi địa phương có chính sách hoạt động khác nhau. Vì vậy, cần có chính sách chung trong vận hành, quản lý để bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả trên phạm vi cả nước.
Theo Bộ VHTT&DL, nguồn lực để triển khai, thực hiện Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa còn nhiều hạn chế. Chính sách ưu đãi, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp văn hóa chưa được bổ sung, hoàn thiện kịp thời. Thị trường văn hóa nhìn chung còn manh mún, tự phát, chưa tạo được bước đột phá. Đáng nói, nguồn kinh phí bố trí cho các hoạt động và đầu tư nâng cấp trang thiết bị cho công trình văn hóa nghệ thuật, các thiết chế văn hóa trọng điểm còn thiếu đồng bộ.
Đáng chú ý, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ cấp chiến lược, đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hoá, con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Tạ Quang Đông cũng chỉ rõ, với hệ thống các nhà hát hiện đang đối mặt với việc bị “gãy” một số khâu, trong đó có tình trạng thiếu nhân lực trẻ, đội ngũ sáng tạo, kỹ thuật.
“Muốn có các sản phẩm nghệ thuật chất lượng, rất cần có thêm vốn mồi để tăng chất lượng khâu dàn dựng, rồi mới tính đến bán sản phẩm” - Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Tạ Quang Đông chia sẻ.
Luật Di sản (sửa đổi) quy định chủ sở hữu nhưng chưa có những định hướng để giúp chúng ta hiểu một cách thấu đáo về chủ nhân văn hóa. Ví dụ những người đã xây thành Cổ Loa chỉ còn sống trong huyền thoại của chúng ta, nhưng đơn vị quản lý hiện nay là UBND xã Cổ Loa, UBND huyện Đông Anh và những người hằng ngày, hằng giờ tương tác với di sản thành Cổ Loa là Nhân dân xã Cổ Loa.
Như vậy, chủ nhân tác tạo và chủ nhân sở hữu di sản thành Cổ Loa hiện nay có khoảng cách hàng nghìn năm. Làm sao để những chủ nhân sở hữu ngày nay hiểu thấu đáo những thông điệp văn hóa của chủ nhân tác tạo gửi gắm vào đó thì mới phát huy được tốt và họ mới thấy di sản này thiêng liêng, từ đó có trách nhiệm tham gia chung tay bảo tồn. Tức là chúng ta phải chăm lo đến nguồn nhân lực trở thành cầu nối giữa các thế hệ, là tác giả của phát triển công nghiệp văn hóa, những sứ giả văn hóa trong tương lai.
GS.TS Phạm Hồng Tung - Đại học Quốc gia Hà Nội
(Còn nữa)