Bệnh rối loạn chuyển hóa lipid là gì?

PGS.TS Nguyễn Hoài Nam
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Máu nhiễm mỡ (mỡ máu cao) thực chất là tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid máu. Đó là tình trạng tăng nồng độ các chất mỡ trong máu bao gồm cholesterol và triglycerid.

Dấu hiệu nào cho biết người bị mỡ trong máu cao?
Người bị mỡ máu cao không có triệu chứng rõ rệt. Bị bệnh mỡ máu cao không chỉ có ở người béo mà còn có thể ở cả người gầy. Bệnh diễn biến âm thầm, khi có dấu hiệu và biểu hiện nghĩ đến bị mỡ máu cao, tức là đã có biến chứng, khi đó thường có một số dấu hiệu nhận biết như:

- Có những cơn đau thắt ngực không thường xuyên, thời gian ngắn, tự mất không cần điều trị nhưng lại có thể tái diễn bất cứ lúc nào. Hoặc có cảm giác khó chịu vùng ngực như bị đè nặng, bóp nghẹt, đầy tức, kéo dài từ vài phút đến vài chục phút. Cơn đau thường xuất hiện khi gắng sức và giảm khi nghỉ, khó thở có thể kèm hoặc không kèm với tức ngực, có thể đau hoặc tức lan ra 1 hay 2 bên cánh tay, hướng ra sau lưng, lên cổ, hàm, thậm chí ở vùng dạ dày.
 Ảnh minh họa.
- Có dấu hiệu bất thường như: Vã mồ hôi tự nhiên; buồn nôn đau đầu, choáng hoa mắt bứt rứt trong người; thở ngắn hồi hộp, cơ thể phì mập nhưng sức lao động lại giảm sút; cơ thể thường xuyên mệt mỏi.

- Một số trường hợp có ban vàng dưới da: Da có những nốt phồng nhỏ bề mặt bóng loáng, màu vàng, mọc nhiều trên da mắt, khuỷu tay, bắp đùi, gót chân, lưng, ngực… to bằng đầu ngón tay, màu vàng nhạt, không đau, không ngứa.

Khi có dấu hiệu nghi ngờ bị bệnh mỡ máu cần đi xét nghiệm các thành phần lipid để chẩn đoán xác định, với các kết quả:

- Tăng cholesterol toàn phần.

- Tăng LDL-cholesterol.

- Tăng -triglycerid.

- Giảm HDL-cholesterol.

Đối tượng nào dễ bị mỡ máu cao?

Thừa cân, béo phì, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, ăn nhiều thức ăn có chứa chất béo sẽ làm tăng lượng triglycerid trong máu là những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh máu nhiễm mỡ.

Bên cạnh đó, máu nhiễm mỡ còn do biến chứng của các bệnh như: Tiểu đường, hội chứng thận hư, tăng urê máu, suy tuyến giáp, bệnh gan, nghiện rượu, uống thuốc tránh thai, một số thuốc tim mạch như thuốc ức chế bêta giao cảm, nhóm thuốc lợi tiểu thiazid (chiếm khoảng 10% nguyên nhân gây bệnh máu nhiễm mỡ).

Nguyên nhân nào gây ra tình trạng máu nhiễm mỡ?

Có 3 nguyên nhân chính gây tăng lipid trong máu:

Tăng lipid máu do ăn: Tăng lipid máu bắt đầu 2 - 3giờ sau khi ăn nhiều mỡ, đạt mức cao nhất sau 4 - 6 giờ và tới giờ thứ 9 thì trở về mức bình thường. Mức độ và thời gian tăng lipid máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Loại mỡ (dầu thực vật hấp thu nhanh hơn mỡ động vật), thời gian mỡ thoát khỏi dạ dày, cường độ nhu động ruột, lượng mật bài tiết, hoạt tính men lipaza tụy và ruột, lượng lipid máu lúc đầu... Khi lipid máu đã tăng, dù có ăn thêm mỡ lipid máu cũng không tăng bao nhiêu, hiện tượng tự điều chỉnh lipid máu là do lipid máu tăng đã ức chế hấp thu lipid ở ruột, hoạt hóa chức năng cố định mỡ của tổ chức phổi, kích thích hệ lưới nội mô gây tăng tiết các hormon và heparin - chỉ cần một khâu trong dây chuyền đó có vấn đề là đủ đẻ gây rối loạn quá trình tự điều chỉnh lipid máu.

Tăng lipit máu do ứ đọng: Khi giảm hoạt tính men lipoprotein lipaza do tăng chất ức chế men này (protamin, axit mật, NaCl) hoặc do giảm tiết heparin (như trong bệnh xơ vữa động mạch) thấy giảm thủy phân triglycerid (dưới dạng chylomicron) gây tăng lipid máu. Trong bệnh thận hư, tăng lipid máu là do các chất ức chế tiêu mỡ; ngoài ra trong bệnh này albumin huyết tương giảm (do protein niệu nghiêm trọng) do đó giảm khả năng kết hợp với ABTDHT, kết quả là quá trình tiêu mỡ bị ức chế và tăng lipit máu. Tăng lipid máu sau khi chảy máu cũng phát sinh theo cơ chế này; tiêm albumin cho bệnh nhân thận hư thấy hiện tượng tăng lipid máu chấm dứt.

Tăng lipit máu do tăng huy động: Do triglycerid ở tổ chức mỡ được huy động nhiều khiến cho ABTDHT tăng. Tăng lipid máu do huy động có thể do những nguyên nhân sau gây ra: Dự trữ glycogen giảm (đói ăn), trạng thái căng thẳng (stress), lao động nặng, giao cảm hưng phấn, tăng tiết hormon (catecholamin, ACTH, STH, thyroxin... ), đái tháo đường (glucose không được sử dụng, lipid tăng thoái biến, lipid máu tăng tới 1000 - 2800 mg/100ml). Tiêm glucose gây tăng đường máu có tác dụng tăng tổng hợp triglyxerid ở tổ chức mỡ, do đó đã hạn chế tiêu mỡ và chấm dứt hiện tượng tăng lipit máu do huy động.

Dinh dưỡng cho người bị bệnh mỡ trong máu cao như thế nào?

Những người bị mỡ trong máu cao cần biết kiểm soát ăn uống một cách nghiêm túc. Nên ăn những loại thực phẩm có chứa hàm lượng cholesterol thấp như rau xanh, các sản phẩm được làm từ đậu, thịt nạc thăn… Ðặc biệt là nên ăn những loại rau xanh có chứa nhiều chất xơ. Chỉ có như vậy thì mới làm giảm được sự hấp thụ của đường ruột đối với cholesterol.

Không nên ăn tối quá muộn với thức ăn nhiều đạm vì rất khó tiêu hóa và sẽ làm cho cholesterol đọng trên thành động mạch dẫn đến xơ vữa động mạch.

Nên ăn nhạt vì thức ăn này có lợi cho sức khỏe và bệnh tim. Kiêng thức ăn có nồng độ chất béo cao, nên ăn những thức ăn ít chất béo như cá, đậu phụ, đỗ tương.

Nên ăn các thực phẩm có nhiều tác dụng giảm mỡ trong máu như: Gừng, chế phẩm đậu sữa, nấm hương, mộc nhĩ, hành tây, trà, dầu ngô.

Ðể khắc phục tình trạng cholesterol máu cao, chế độ ăn là ưu tiên số một.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần