“Chiến thắng vẻ vang Điện Biên Phủ năm 1954 là một kỳ tích làm rung
chuyển cả thế giới”, cụm từ này vẫn còn vang vọng sau bảy thập kỷ, đánh dấu một cột mốc lịch sử trong nỗ lực đập tan tham vọng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, buộc chính quyền thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève năm 1954 chấm dứt chiến sự, lập lại hòa bình ở Đông Dương và công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Báo Kinh tế & Đô thị hân hạnh giới thiệu loạt 5 bài phân tích sự kiện mang mốc son chói lọi không chỉ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, mà còn là sự công nhận trên toàn thế giới nhìn từ nhiều góc độ khác nhau. Từ lời kể của những nhân chứng tham gia trận chiến Điện Biên Phủ đến những tác phẩm nghệ thuật đầy cảm hứng sáng tạo của thế hệ nghệ sỹ trẻ Việt – gửi gắm đến bạn đọc trong và ngoài nước những câu chuyện lịch sử của một thời hào hùng, sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa hận thù và lòng vị tha… Bên cạnh đó là những hiểu biết và phân tích của các nhà sử học, chuyên gia quốc tế mang đến những góc nhìn mới mẻ với ý nghĩa sâu sắc và tầm ảnh hưởng mang tầm quốc tế của Chiến thắng Điện Biên phủ.
Kể từ sau thắng lợi cách đây 70 năm, Việt Nam đã và đang tiến bước trên con con đường phát triển toàn diện và gặt hái được nhiều dấu mốc thành tựu quan trọng. Chính trị ổn định được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nâng cao, nhân dân hết lòng tin tưởng, đi theo đường lối chỉ đạo của Đảng.
Về kinh tế, Việt Nam liên tục tăng trưởng và ổn định, đời sống của người dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ; ngoại giao được mở rộng, vị thế, vai trò và ảnh hưởng của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực và quốc tế. Tất cả các nỗ lực được nhìn nhận và trân trọng, “nếu không có quá khứ, chắc chắn sẽ không có tương lai.”
Những thành tựu trên được xây dựng trên nền tảng vô giá của những “viên gạch” lịch sử, như Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đem lại hòa bình, độc lập, tự do và phát triển. Đối với cộng đồng quốc tế, thế hệ trẻ và những người đang sống ngày nay, việc hiểu và rút ra bài học từ sự kiện Điện Biên Phủ là rất cần thiết. Với vai trò là những nhà báo, phóng viên, chúng tôi chân thành hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc tuyên truyền giá trị lịch sử và văn hóa Việt Nam thông qua những bài viết được thể hiện công phu dưới hình thức báo chí hiện đại: Longform, infographic, video…
Không phải ngẫu nhiên mà từ “Điện Biên Phủ” xuất hiện trong từ điển quân sự thế giới. Cách đây đúng 70 năm, ngày 13/3/1954, Quân đội cách mạng Việt Nam mở cuộc tấn công đầu tiên vào căn cứ Điện Biên Phủ kiên cố của thực dân Pháp, mở đầu chiến dịch lịch sử kéo dài 56 ngày đêm với chiến thắng vang dội dẫn đến việc ký kết Hiệp định Genève, chấm dứt gần một thế kỷ cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, là chiến thắng của tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được rèn giũa qua hàng nghìn năm lịch sử.
Cựu chiến binh Bùi Kim Diệu, 94 tuổi, vẫn còn nhớ như in những ngày đầu xung phong ra mặt trận, cảm xúc vẫn đong đầy khi hồi tưởng lại một thời tuổi trẻ oanh liệt khi trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên phủ, nơi ông từng trải qua nhiều gian khổ, chứng kiến những hy sinh xương máu được đánh đổi bằng niềm vui Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Vào mùa Thu Đông năm 1953, thực dân Pháp, với sự can thiệp của Mỹ, đã vạch ra Kế hoạch Navarre nhằm biến Điện Biên Phủ thành căn cứ quân sự mạnh nhất ở Đông Dương và dụ Việt Minh vào một cuộc xung đột quy mô lớn với mục đích làm tê liệt lực lượng này. Thời điểm đó, các chỉ huy quân sự thực dân Pháp thường xuyên khoe khoang về căn cứ kiên cố này, được mệnh danh là “con nhím” với những công sự bằng bê tông được xây dựng khắp bốn bên sườn. Tại thung lũng Mường Thanh, quân Pháp triển khai 16.200 quân chia thành 21 tiểu đoàn thực hiện nhiệm vụ tại ba miền Bắc, Trung, Nam, với 49 công sự cố thủ hỗ trợ lẫn nhau.
Chàng trai 20 tuổi Bùi Kim Diệu viết đơn tình nguyện ra chiến trường. Đó là điều hiển nhiên vì anh em và bạn bè của anh ấy đều làm như vậy. Họ đang tiến về Điện Biên để chiến đấu vì tổ quốc.
Đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) quyết định phát động Chiến dịch Điện Biên Phủ và áp dụng chiến lược tác chiến “tấn công nhanh, thắng nhanh”. Tuy nhiên, sau khi xem xét cán cân quyền lực giữa hai bên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra quyết định khó khăn nhất trong sự nghiệp của mình: Dừng tấn công và chuyển chiến lược từ “tấn công nhanh, thắng nhanh” sang “tấn công chắc, tiến chắc”.
Trong thư gửi các bộ đội ngày 11/3/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói nhiệm vụ này là gian khổ nhưng đầy vinh quang. Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ niềm tin vững chắc vào các chiến sĩ, những người sẽ phát huy sức mạnh chiến thắng trước đó để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành sứ mệnh phía trước.
Theo cựu chiến binh Diệu, sau ngày đêm liên tục chiến đấu và đào hào, bộ đội Việt Nam đã xây dựng được hệ thống chiến hào rất dài bao vây căn cứ địch ở Điện Biên Phủ.
Ông Diệu nói: “Trước sự tấn công dồn dập của máy bay và pháo binh Pháp, bộ đội Việt Nam bám trụ trong khi chiến hào của họ áp sát địch. Mọi nỗ lực phá hoại chiến hào của Pháp đều thất bại”.
Ngày 13/3/1953, đúng 5 giờ chiều, quân Việt Nam nổ súng vào pháo đài Him Lam, mở đầu Chiến dịch Điện Biên Phủ. Các chiến sỹ đã phá hủy pháo đài Độc Lập, buộc pháo đài Bản Keo phải đầu hàng, chiếm được cửa ngõ phía Bắc căn cứ Điện Biên Phủ.
Hơn 2.000 lính Pháp bị giết hoặc bị bắt làm tù binh, 25 máy bay bị phá hủy, một trung đoàn bị tiêu diệt, sân bay Mường Thanh bị xâm phạm. Tháng 4 năm 1954, quân cách mạng đồng loạt tấn công công sự, siết chặt vòng vây, chiếm giữ sân bay Mường Thanh, khiến quân địch vô cùng hoảng sợ.
Cựu chiến binh Hoàng Văn Bảy (sinh năm 1933) nhớ lại ông và đồng đội được lệnh tấn công căn cứ Pháp trên đồi A1, tiếp cận căn cứ địch bằng cách đào chiến hào.
“Nhiệm vụ của đơn vị chúng tôi là chiến đấu và đào hào từ rừng đến đồi A1. Chúng tôi ngụy trang bằng cách đặt cây lên trên chiến hào. Lúc đầu, chúng tôi nằm sát đất để đào vì đứng sẽ dễ bị địch bắn. Khi chiến hào sâu hơn một chút, chúng tôi có thể ngồi xuống đào dần dần, chiến hào của chúng tôi tiến sát vào hầm chỉ huy của địch,” ông Bảy nói.
Ông Bảy rơi nước mắt kể lại có những trận chiến khốc liệt đến nỗi đồng đội của ông ngã xuống nhiều không đếm xuể. Có lần người đầu bếp quân đội mang tới 90 nắm cơm nhưng chỉ phục vụ được 10 vì 80 người vừa ngã xuống.
"Đau đớn đến thế nhưng những người lính trẻ dũng cảm không hề chùn bước. Họ chiếm giữ những vị trí mà binh lính đã hy sinh để lại, làm chiến hào dài hơn, vươn xa hơn để mang lương thực, vũ khí, thuốc men ra chiến trường," ông Bảy cho biết
Từ ngày 1 đến ngày 7/5/1954, quân đội Việt Nam làm chủ các công sự phía Đông và tiến hành tổng tiến công tiêu diệt toàn bộ căn cứ quân sự Điện Biên Phủ.
Vào lúc 17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ “Quyết đánh, quyết thắng” của quân đội Việt Nam được kéo lên trên nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries của Pháp. Đến nửa đêm cùng ngày, toàn bộ quân Pháp đầu hàng.
Trong cuộc tổng tấn công ngày 7/5/1954, ông Bảy bị trúng đạn vào đùi và bị đưa về hậu phương. Khi nằm trên giường bệnh, ông Bảy nghe tin quân mình đã tiêu diệt hoàn toàn thành trì Điện Biên Phủ và địch đã đầu hàng.
“Mọi người đều nhảy cẫng lên. Dù bị thương nhưng tôi vẫn cố đứng dậy, cổ vũ và ôm chặt mọi người vì vô cùng hạnh phúc,” ông Bảy nói.
Trong 56 ngày chiến đấu anh dũng, dũng cảm và sáng tạo, quân và dân Việt Nam đã giành được Chiến thắng Điện Biên Phủ “ vang dội năm châu, chấn động địa cầu”. Toàn bộ cái gọi là căn cứ quân sự Điện Biên Phủ “bất khả xâm phạm” đã bị xóa sổ hoàn toàn.
Sau này, trong hồi ký về trận Điện Biên Phủ, tướng De Castries đã không giấu được sự khâm phục và ấn tượng trước tài lãnh đạo quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tướng Giáp là người thông minh, dũng cảm, là một chỉ huy du kích giỏi”.
De Castries thừa nhận: “Ông đã chỉ huy những chiến dịch tưởng chừng như không thể thắng và đưa ra những quyết định mà có lẽ không vị tướng nào dám làm. Đặc biệt, tướng Giáp rất giỏi đánh du kích, lấy ít địch hơn”.
De Castries thú nhận ông rất vinh dự được là đối thủ của Tướng Giáp, bị đánh bại trực tiếp bởi một người tài giỏi như Tướng Giáp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Chiến thắng Điện Biên Phủ là cột mốc vàng rực rỡ trong lịch sử, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nó cũng tạo tiền đề cho Nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.
Theo Thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 nổi bật là một bản anh hùng ca đáng chú ý về chiến tranh Nhân dân, đã đi vào lịch sử như một thắng lợi oanh liệt, đập tan thành trì của chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
“Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm thất bại hoàn toàn Kế hoạch Navarre, giáng một đòn chí tử vào tham vọng xâm lược của thực dân Pháp, lật ngược cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơ-ne-vơ,” Thiếu tướng Nhiên nói.
Trong bài bình luận về Chiến thắng Điện Biên Phủ, Thiếu tướng Nhiên cho rằng, chính sự đoàn kết, tham gia của toàn dân đã làm nên lịch sử.
“Chiến lược chiến tranh Nhân dân là đúng đắn, sáng tạo. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn dân tham gia đánh địch, lấy lực lượng vũ trang Nhân dân làm nòng cốt. Con đường này phù hợp với truyền thống bất khuất của dân tộc, đấu tranh kiên cường trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước,” Thiếu tướng Nhiên nói.
Thiếu tướng cho rằng, rút ra bài học từ Chiến dịch Điện Biên Phủ, Việt Nam cần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, tăng cường sức mạnh quân đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong nước. kỷ nguyên mới.
“Với kinh nghiệm từ Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi tin chắc rằng sức mạnh chiến tranh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,” ông Nhiên nói.
Trận Điện Biên Phủ đánh dấu thời điểm then chốt trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam và cuộc đấu tranh toàn cầu chống chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, sự kiện còn truyền cảm hứng cho các phong trào giải phóng trên khắp thế giới. Cuộc nổi dậy đòi chủ quyền, tự do, độc lập của Việt Nam mà biểu tượng là Chiến thắng Điện Biên Phủ đã vang dội khắp thế giới.
Theo Đại sứ Maroc Jamale Chouaibi, đây không chỉ là chiến thắng về mặt quân sự mà còn là minh chứng cho khát vọng tự do kiên định của người dân.
Ông nói: “Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã thể hiện
sự kiên cường, chiến lược và sự đoàn kết vượt trội trước những tình huống khó khăn. Chiến thắng này đã mang lại hy vọng cho người dân thuộc địa trên toàn thế giới, trong đó có Maroc”.
Đại sứ Jamale Chouaibi khẳng định, Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh
chứng cho sức mạnh biến đổi của hòa bình, độc lập, tự do trong việc định hình lịch sử và truyền cảm hứng cho các phong trào giải phóng trên thế giới.
"Trong mối quan hệ toàn cầu được kết nối với nhau ngày nay, việc giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia vẫn là trọng tâm để các quốc gia có thể đạt được sự thịnh vượng và gắn kết xã hội. Đảm bảo hòa bình ở cấp khu vực và quốc tế là điều cần thiết để thúc đẩy sự ổn định và hợp tác giữa các quốc gia. Điều này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ với các nước cựu thù bên cạnh việc tích cực đa dạng hóa các đối tác ngoại giao và kinh tế trên toàn thế giới,"ông nói.
Bảy mươi năm đã trôi qua nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn là nguồn tự hào của Nhân dân Việt Nam bởi ý nghĩa to lớn của nó.
Tại cuộc gặp mới đây ở tỉnh Điện Biên, Thủ tướng Phạm Minh Chính tái khẳng định Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đó là thắng lợi của tinh thần yêu nước, tinh thần bất khuất và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt, sáng suốt của Đảng. Đó cũng là minh chứng cho sự trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam.
08:09 01/05/2024