Kết quả biểu quyết cho thấy, có 456/460 đại biểu Quốc hội tham gia tán thành thông qua Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp (chiếm tỷ lệ 94,41%). Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nêu rõ, với đa số đại biểu Quốc hội tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Nghị quyết. |
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ: Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thảo luận trực tuyến tại Hội trường về Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách chủ trì, phối hợp với Cơ quan soạn thảo nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ ý kiến của các vị ĐBQH, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Nghị quyết.
Đa số ý kiến nhất trí về sự cần thiết tiếp tục ban hành chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần sớm trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp cho phù hợp với quy định của pháp luật và thể hiện rõ chính sách miễn, giảm thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 09/11/2016 của Quốc hội; Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành thực hiện tổng kết, đánh giá tổng thể chính sách thu liên quan đến đất đai, trong đó có thuế sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN). Đồng thời, lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản, trong đó đã đề xuất đưa đất nông nghiệp vào đối tượng không chịu thuế tài sản để tiếp tục thực hiện kết quả đạt được của chính sách miễn thuế SDĐNN hiện hành (dự kiến nếu Luật Thuế tài sản được ban hành sẽ thay thế cho Luật Thuế SDĐNN, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp). Tuy nhiên, trong quá trình gửi xin ý kiến về dự án Luật Thuế tài sản còn có nhiều ý kiến rất khác nhau. Do đó, các cơ quan của Chính phủ đang tiếp tục đánh giá tổng thể chính sách thuế đối với tài sản nói chung và đối với đất đai nói riêng, trong đó có chính sách thuế SDĐNN, trên cơ sở đó sẽ trình Quốc hội hoàn thiện chính sách thuế đối với đất đai, tài sản cho phù hợp trong thời gian tới. Do vậy, trước mắt để đảm bảo thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và giảm bớt khó khăn cho người nông dân, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trước những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid 19 và thiên tai, biến đổi khí hậu trong tình hình hiện nay, UBTVQH đề xuất Quốc hội cho phép ban hành Nghị quyết để kéo dài việc thực hiện chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong giai đoạn vừa qua đến hết năm 2025.
Một số ý kiến đề nghị xem lại tên gọi của Nghị quyết để bảo đảm phù hợp với nội dung của Nghị quyết là kéo dài việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp theo Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14. Một số ý kiến đề nghị xây dựng một Nghị quyết mới thay thế cho Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 và Nghị quyết số 28/2016/QH14 của Quốc hội để bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
UBTVQH xin tiếp thu, giải trình như sau: Việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội để kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trường hợp Quốc hội ban hành Nghị quyết kéo dài thời gian áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, việc ban hành Nghị quyết kéo dài sẽ giảm rất nhiều thủ tục hành chính trong việc hướng dẫn thực hiện Nghị quyết so với phương án ban hành một Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 với nội dung tương đồng với chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành.
Tuy nhiên, để đảm bảo tên gọi phù hợp với nội dung của Nghị quyết. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo Cơ quan thẩm tra và Cơ quan soạn thảo chính lý lại tên gọi của Nghị quyết và nội dung tại Điều 1 đảm bảo phù hợp giữa tên gọi và nội dung của dự thảo Nghị quyết.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.. |
Về đối tượng miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp: Một số ý kiến đề nghị rà soát đối tượng miễn thuế SDĐNN, theo đó đề nghị nghiên cứu các đối tượng còn lại thuộc diện nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác trực tiếp sản xuất, sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, diện tích đất được nhà nước giao cho đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng giảm 100% thay vì chỉ 50% như hiện nay.
UBTVQH xin giải trình như sau: Theo quy định hiện hành (tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về miễn thuế SDĐNN và Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội) thì trường hợp đối tượng trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao để sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả đất giao cho đơn vị lực lượng vũ trang đều được miễn thuế SDĐNN đối với toàn bộ diện tích đất được giao.
Có ý kiến đề nghị cần tiếp tục ban hành chính sách thuế đối với doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để thực sự thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; miễn, giảm các loại thuế, kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp trong quá trình tiêu thụ sản phẩm được chế biến, liên kết chế biến sản phẩm nông nghiệp đã được doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
UBTVQH xin giải trình như sau: Luật thuế TNDN hiện hành đã quy định miễn thuế đối với thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản, sản xuất muối của hợp tác xã; thu nhập của hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp ở địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn; thu nhập của doanh nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản ở địa bàn đặc biệt khó khăn; thu nhập từ hoạt động đánh bắt hải sản. Đồng thời, quy định mức thuế suất ưu đãi đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp như: áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% (thuế suất phổ thông là 20%) đối với thu nhập của doanh nghiệp từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng, chế biến nông, thủy sản ở địa bàn khó khăn; nuôi trồng lâm sản ở địa bàn khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi;...
Bên cạnh đó, trong thời gian qua đã rà soát bãi bỏ các loại phí, lệ phí không hợp lý trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm giảm thủ tục hành hành chính, giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn (chuyển 06 khoản phí trong lĩnh vực nông nghiệp sang thực hiện theo giá dịch vụ với mức thu bằng với mức thu cũ; bãi bỏ 09 khoản lệ phí trong lĩnh vực nông nghiệp). Như vậy, các chính sách về thuế, phí và lệ phí đã góp phần thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như đề nghị của ĐBQH.
Có ý kiến cho rằng, việc kéo dài chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp sẽ làm mất chức năng của thuế sử dụng đất nông nghiệp, gây ra tình trạng hoang hóa ruộng đất và chưa bám sát tinh thần của Kết luận 36-KL/TW ngày 6/9/2018 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI.
UBTVQH giải trình như sau: Đúng như ý kiến ĐBQH nêu, thực tế quá trình SDĐNN cho thấy, có tình trạng đất nông nghiệp được giao cho hộ nông dân nhưng không đưa vào sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả, gây nên tình trạng hoang hóa, lãng phí đất. Tuy nhiên, việc không đưa đất vào sử dụng, để hoang hóa có nhiều nguyên nhân chủ yếu khác, như thiên tai (hạn hán, thiếu nước), dịch bệnh, sản phẩm không có đầu ra, hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao, thiếu hụt nguồn lao động và một phần cũng do chính sách về đất đai chưa thật hoàn thiện. Cùng với việc thực hiện chính sách miễn hoặc giảm thuế SDĐNN trong thời gian qua có thể cũng là một nguyên nhân nhưng xét về tổng thể không phải là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc hoang hóa ruộng đất.
Các đại biểu Quốc hội ấn nút biểu quyết thông qua Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. |
Việc kéo dài thời gian miễn thuế SDĐNN đến hết 2025 là nhằm tiếp tục phát huy kết quả đạt được của chính sách miễn thuế SDĐNN, đảm bảo phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đồng thời, góp phần tháo gỡ khó khăn cho người nông dân, đặc biệt trong việc ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19, biến đổi khí hậu trong tình hình hiện nay. Trong dài hạn, để triển khai thực hiện tốt Kết luận số 36-KL/TW ngày 6/9/2018 của Bộ Chính trị, đề nghị Chính phủ nghiên cứu, đánh giá kỹ để báo cáo Quốc hội khi nghiên cứu đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai nói chung và chính sách thuế liên quan đến đất đai nói riêng tại thời điểm thích hợp.
Một số ý kiến đề nghị rà soát đối tượng miễn thuế SDĐNN và bổ sung các quy định về quản lý đất đai trong dự thảo Nghị quyết để chính sách miễn thuế SDĐNN thực sự có tác động đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất; hoặc quy định về thời gian cụ thể đối với đất không sản xuất hoặc việc giao đất cho các tổ chức nông, lâm trường không sản xuất và cho thuê lại thì không được hưởng chính sách miễn thuế.
UBTVQH giải trình, tiếp thu như sau: Trong quá trình xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế SDĐNN (Nghị quyết số 55/2010/NQ12 và Nghị quyết số 28/2016/NQ14) đã tiến hành rà soát kỹ về đối tượng được hưởng chính sách miễn thuế SDĐNN. Mặt khác, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và quy định của pháp luật về thuế SDĐNN thì các trường hợp được nhà nước giao đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất chủ yếu là hộ nông dân (bao gồm cả trường hợp thuộc đối tượng thuê đất theo quy định của Luật đất đai năm 2013 nhưng chưa chuyển sang thuê đất), trường hợp đang SDĐNN được giao trong thời hạn đã nộp tiền sử dụng đất là đối tượng phải nộp thuế SDĐNN và được miễn thuế đến hết 2020 (trừ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì phải nộp 100% thuế SDĐNN).
Đồng thời, nội dung về quản lý đất đai thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hơn nữa, Luật đất đai 2013 đã quy định việc xác định một số loại đất nông nghiệp không được sử dụng trong khoảng thời gian nhất định là những hành vi vi phạm pháp luật và phải thực hiện thu hồi đất. Nghị quyết số 28/2016/QH14 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 cũng quy định: “Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương rà soát, chấn chỉnh, thực hiện thu hồi đất nông nghiệp do vi phạm pháp luật về đất đai theo đúng quy định của pháp luật về đất đai”. Vì vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị trong giai đoạn tới, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các yêu cầu, nhiệm vụ trên để siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong công tác quản lý đất đai và đề xuất Quốc hội cho phép không quy định nội dung liên quan đến quản lý đất đai tại Nghị quyết này.
Ngoài các vấn đề trên, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiêm túc tiếp thu nhiều ý kiến xác đáng của các vị ĐBQH, chỉnh lý về từ ngữ, kỹ thuật văn bản, bảo đảm thống nhất nội dung giữa các điều và đã được thể hiện cụ thể trong dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Tính đến nay đã 17 năm Việt Nam thực hiện chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thực tế cho thấy, chính sách này là giải pháp có tác động lớn, quan trọng góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nông nghiệp vẫn là trụ đỡ chính cho nền kinh tế của nước ta vào những lúc khó khăn nhất. Để khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, góp phần nâng mức tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 3%/năm. Việc tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện được xem là giải pháp thiết thực nhất.