Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Chống đại dịch Covid-19: Nhìn từ sự hào phóng “kiểu Bắc Âu”

Hương Thảo
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Trước những thiệt hại nặng nề do dịch Covid-19 gây ra, chính phủ nhiều nước đều đã ban hành các biện pháp giải cứu nền kinh tế, nhằm bảo vệ người lao động và DN.

Chưa hết choáng ngợp bởi gói 2.000 tỷ USD của Mỹ, thế giới chứng kiến nhiều chương trình cứu trợ ấn tượng tại châu Âu, đặc biệt là ở Bắc Âu - nơi các “ông lớn” cũng khó có thể làm theo.
Trả tiền để ở nhà
Hôm 25/3, Thượng viện Mỹ thông qua gói kích thích kinh tế trị giá 2.000 tỷ USD, được đánh giá là “phương thuốc” quen thuộc, thường được nước này sử dụng để giải quyết những vấn đề thường gặp của nền kinh tế, như khả năng chi tiêu đột ngột giảm, thị trường chứng khoán lao dốc hoặc giá bất động sản đi xuống.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiện nay là một trường hợp rất khác, khi mất việc tăng nhanh ở mọi nơi do người dân phải tuân thủ những quy định phòng dịch mà chính phủ đề ra. Và khi đối mặt với tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng, Washington cũng buộc phải gây áp lực cho hoạt động kinh doanh, khiến giá trị của biện pháp kích thích truyền thống trở nên thiếu rõ ràng.
Các doanh nghiệp đóng cửa vì lệnh hạn chế mùa dịch Covid-19.
Theo các nhà kinh tế học, hơn cả việc giữ cho DN không phá sản, điều cần thiết hiện tại là các chính phủ nên can thiệp và hỗ trợ trực tiếp đối với khoản chi trả cho người lao động, ngăn chặn làn sóng thất nghiệp.
Đây chính là con đường mà nhiều quốc gia châu Âu đang lựa chọn, mà nôm na là Nhà nước thay DN trả lương cho người lao động, để mọi người yên tâm ở nhà tránh dịch. Một ngày sau quyết định của Mỹ, Chính phủ Anh cam kết chi trả 80% tiền lương cho riêng 5 triệu lao động tự do, dự kiến tiêu tốn 2.500 bảng Anh/tháng (3.000USD). Đây là khoản trợ cấp vô cùng có ý nghĩa đối với hàng triệu người không làm việc toàn thời gian hoặc tự kinh doanh, như tài xế taxi, công nhân xây dựng, chủ nhà hàng, quán cà phê…, đều là những người sẽ gặp khó khăn nếu chỉ hỗ trợ dựa trên bảo hiểm.
Hơn thế, tại Đan Mạch, chính phủ nước này đồng ý hỗ trợ trang trải chi phí thuê mặt bằng cho các DN chịu sụt giảm về doanh thu. Bên cạnh đó, một hiệp hội lao động và chủ DN - với sự tham gia của mọi đảng chính trị tại Đan Mạch - hồi đầu tháng đã thúc đẩy thông qua một kế hoạch để chính phủ chi trả 75 - 90% tiền lương cho người lao động trong 3 tháng tới, với điều kiện các công ty không được phép sa thải nhân viên.
Gói hỗ trợ gồm 2 nội dung này ước tính trị giá khoảng 42,6 tỷ Kroner (6,27 tỷ USD), sau khi đã trừ khoản tiết kiệm trong hệ thống bảo hiểm thất nghiệp. Một quốc gia Bắc Âu khác là Hà Lan, cũng đưa ra một kế hoạch tương tự, rằng chính phủ sẽ trả 90% tiền lương cho nhân viên của các công ty ghi nhận doanh thu tổn thất ít nhất 20% trong mùa dịch Covid-19.
Mục đích của biện pháp này là ngăn chặn tình trạng thất nghiệp hàng loạt, trong khi cho phép các DN giữ chân nhân viên. Nó không chỉ cứu trợ nhanh chóng trong thời kỳ suy thoái đột ngột mà còn có tác dụng giúp các công ty khi hoạt động bình thường trở lại không mất thời gian tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới.
Vì sao Mỹ không thể?
Nhiều nhà kinh tế tin rằng, tình trạng khẩn cấp hiện tại đã nghiêm trọng đến mức đòi hỏi các chính phủ phải “bước ra khỏi vùng an toàn”. Tuần trước, Mỹ, cường quốc kinh tế số 1 thế giới, đã ghi nhận số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp tăng cao lên mức kỷ lục - gần 3,3 triệu người. Khi Mỹ giờ đây đang là ổ dịch lớn nhất thế giới và nền kinh tế gần như đóng cửa hoàn toàn, sự suy thoái được dự báo có thể còn tồi tệ hơn cuộc Đại khủng hoảng.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng hiện tại, kích thích nền kinh tế tiêu dùng như Mỹ trước nay vẫn làm cũng giống như hối thúc việc mua bán bên trong một trung tâm thương mại bị đe dọa đánh bom. Rõ ràng, người dân không đến mua sắm hay ăn uống ở nhà hàng không phải vì thiếu tiền, mà vì họ lo ngại dịch bệnh.
Và theo tính toán, một “phiên bản” Mỹ của kế hoạch kiểu các nước Bắc Âu sẽ tiêu tốn một khoản tiền khổng lồ. Theo số liệu của viện Brookings, năm 2019, 157 triệu người Mỹ đã có việc làm, trong đó khoảng 53 triệu nhân viên có thu nhập trung bình hàng năm chỉ là 18.000 USD/năm. Vì vậy, chỉ riêng việc trả lương cho nhóm này trong 6 tháng đã tốn 477 tỷ USD. Nếu Chính phủ Mỹ trả lương cho toàn bộ lao động trong nước, với thu nhập trung bình là 64.000 USD, thì tổng chi phí sẽ là 5.000 tỷ USD.
Ngoài ra, theo Fed St. Louis, nợ công tích luỹ của Mỹ tính đến cuối năm ngoái đã vượt 23.000 tỷ USD, tương đương 105% sản lượng kinh tế hàng năm. Con số này tăng gấp đôi so với 2 thập kỷ trước, ngay trước khi một đợt cắt giảm thuế lớn được áp dụng. Việc đi vay thêm 5.000 tỷ USD chắc chắn sẽ bật cảnh báo rằng Washington đang làm giảm giá trị đồng USD và gây lạm phát.
Một lý do giúp Đan Mạch có thể nhanh chóng tung gói hỗ trợ khổng lồ của chính phủ là họ đã đầu tư cho một số chương trình mạng lưới an toàn xã hội lớn nhất thế giới. Theo mô hình kinh tế vốn rất phổ biến ở các nước Scandinavian, người dân chấp nhận mức thuế cực kỳ cao so với tiêu chuẩn toàn cầu, sau đó nhận được những lợi ích từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, bao gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe quốc gia, giáo dục công miễn phí, chương trình đào tạo nghề và trợ cấp tiền mặt cho người thất nghiệp…
Số liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy, nếu một gia đình ở Đan Mạch có 4 trụ cột trong gia đình bị mất việc, thì 6 tháng sau đó, họ sẽ sống với khoản trợ cấp bằng 90% so với thu nhập bình thường và được chính phủ hỗ trợ ở nhiều mặt. Nhưng con số trên ở Mỹ chỉ là 30%.
Từ đây, chính sách thuế trở thành câu trả lời, lý giải tại sao “ông lớn” Mỹ không thể giải cứu nền kinh tế một cách hào phóng kiểu Bắc Âu, cũng là lý do khiến nước này khó lòng mở rộng quỹ y tế và giáo dục.
Theo OECD, năm 2018, Chính phủ Đan Mạch ghi nhận khoản doanh thu từ thuế, tương đương 49% sản lượng kinh tế hàng năm. Con số này tại Hà Lan là 39%. Ở Mỹ cùng năm, doanh thu thuế bằng 24% sản lượng kinh tế hàng năm, trong khi năm 2000 là 28% - mức duy trì trước các đợt cắt giảm thuế lớn của Chính quyền cựu Tổng thống George W.Bush, hay của Tổng thống đương nhiệm Donald Trump.
New York Times đánh giá, ở một quốc gia luôn có xu hướng tìm đến tiền mặt để truy thu thuế và chi tiêu quân sự, trong khi mọi lĩnh vực khác lại hạn chế khả năng thanh toán, cách làm như Đan Mạch hay Hà Lan là “một điều không tưởng về góc độ chính trị”. Từ đó để thấy, ngay trước cả một cuộc khủng hoảng toàn cầu, khó có quy chuẩn nào trong việc lựa chọn phương án đối phó cho chính phủ các quốc gia.

"Chính phủ đã nhận ra cần có những sáng kiến đặc biệt cho tình huống đặc biệt… Nếu có thể giúp các công ty vượt qua thời gian khó khăn, từ đó giảm mức độ nghiêm trọng của các vụ phá sản và sa thải nhân viên, thì mọi thứ sẽ nhanh chóng trở lại bình thường" - Carl-Johan Dalgaard - chuyên gia kinh tế tại ĐH Copenhagen, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Đan Mạch