Chỉ hơn 11% người lao động có kỹ năng cao
Ngày 8/11, phát biểu tại Hội thảo “Xu hướng thị trường lao động kỷ nguyên số”, Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Nguyễn Bá Hoan đã đề cập đến đại dịch Covid-19 là yếu tố tác động, thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực lao động, việc làm nhanh hơn. Tuy vậy, Việt Nam đang đối mặt với thách thức về chất lượng nguồn nhân lực do tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao chỉ chiếm hơn 11% tổng lực lượng lao động; năng suất lao động thấp hơn nhiều nước trong khu vực ASEAN, năng lực ngoại ngữ hạn chế… Người lao động có trình độ kỹ năng hạn chế sẽ chịu tác động mạnh hơn và nguy cơ mất việc cũng cao hơn dưới tác động của khoa học và công nghệ mới.
“Sự bùng nổ ứng dụng công nghệ số, thiết bị thông minh và xu hướng ứng dụng robot vào sản xuất như hiện nay đang đặt ra thách thức đối với thị trường lao động Việt Nam. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ sẽ không còn là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài. Việt Nam có thể sẽ phải chịu sức ép về việc giải quyết việc làm và đối mặt với gia tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm vì Việt Nam có quy mô dân số lớn nhưng chất lượng lao động chưa cao” – Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Nguyễn Bá Hoan nhấn mạnh.
Dưới sự tăng tốc của chuyển đổi số, nhiều công việc truyền thống sẽ dần biến mất hoặc bị thay thế, trong khi một số vị trí mới sẽ ra đời. Với tỷ lệ lao động kỹ năng cao chỉ đạt 11,6%, lao động Việt Nam được đánh giá là kém cạnh tranh hơn về trình độ kỹ năng so với một số thị trường khác trong khu vực như Thái Lan, Philippine, Malaysia. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng, nếu tỷ lệ lao động kỹ năng cao tại Việt Nam quá thấp và không đủ để đáp ứng với tốc độ phát triển của chuyển đổi số, khoảng 2 triệu việc làm tại nước ta sẽ bị mất đi, tính đến năm 2045.
Xây dựng chiến lược có tầm nhìn dài hạn
Đã có không ít lo ngại về việc chuyển đổi số tạo ra biến động trong thị trường lao động, đặc biệt ở những quốc gia có năng suất lao động thấp và chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp. Tuy vậy, Ngân hàng Thế giới cho rằng, số lượng việc làm mới do quá trình chuyển đổi số tạo ra sẽ nhiều hơn gấp 7 lần so với việc làm bị mất đi. Đến năm 2045, ước tính sẽ có khoảng 10 triệu việc làm mới được tạo ra, chủ yếu trong các ngành dịch vụ hiện đại và một số việc làm mới trong lĩnh vực sản xuất.
Nhưng điều này phụ thuộc vào thực tế lực lượng lao động trong nước có đủ kỹ năng phù hợp thông qua các nền tảng số hay không, trong khi việc làm truyền thống mất đi có thể xảy ra ngay lập tức. Mặt khác, việc đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động dưới tác động của chuyển đổi số cũng là một vấn đề nổi cộm.
Tổng Giám đốc ManpowerGroup Việt Nam Andree Mangels cho rằng: “Công nghệ không ngừng thay đổi đồng nghĩa với yêu cầu liên tục cập nhật kỹ năng số cho người lao động. DN cần linh hoạt áp dụng các chương trình nâng cao kỹ năng, đồng thời cũng xây dựng một chiến lược đào tạo có tầm nhìn dài hạn sao cho người lao động có thể đảm nhiệm tốt những công việc hiện tại và cả những vị trí sẽ xuất hiện trong tương lai”.
Dưới tác động kép của đại dịch và kỷ nguyên số, thế giới việc làm tại Việt Nam trong tương lai sẽ chứng kiến những thay đổi lớn liên quan đến người lao động và địa điểm, cách thức làm việc. Vì thế, theo Giám đốc Vận hành Toàn quốc, Dịch vụ Khoán việc & Cho thuê lại lao động, ManpowerGroup Việt Nam Nguyễn Xuân Sơn: Những xu hướng nổi bật như tầm quan trọng ngày càng lớn của lực lượng lao động thời vụ/ngắn hạn, nỗ lực của DN trong việc nâng cao năng lực làm việc cho nhân viên thông qua các chương trình đào tạo kỹ năng, hoặc việc triển khai ngày càng rộng rãi mô hình làm việc linh hoạt… sẽ chiếm ưu thế trong thời gian tới.
Trong khi đó, bà Lê Thu Huyền – đại diện Trung tâm Nghiên cứu Dân số, Lao động – Việc làm, Viện Khoa học, Lao động – Xã hội thuộc Bộ LĐTBXH chia sẻ về một số vấn đề việc làm trong nền kinh tế việc làm tự do tại Việt Nam. Từ việc lấy nghiên cứu về một số việc làm sử dụng nền tảng kỹ thuật số để kết nối lao động tự do với khách hàng nhằm cung cấp các dịch vụ ngắn hạn - ví dụ như tài xế công nghệ hay giúp việc gia đình. Bà Thu Huyền đưa ra những đề xuất để quản lý hiệu quả hơn nhóm lao động này, cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động thuộc nền kinh tế tự do tại Việt Nam. Để làm được tốt những điều này đòi hỏi sự quan tâm và phối hợp của cả Nhà nước, người sử dụng DN và các đơn vị liên quan.