So với lần công bố tháng 8/2014, vị trí của ĐHQGHN gần như giữ nguyên. Việt Nam có 120 cơ sở ở bảng xếp hạng nhưng chỉ có ĐHQGHN ở Top 1000 (894). Top 10 cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam trong bảng xếp hạng lần lượt là: ĐHQGHN (1- xếp hạng 894 thế giới), Trường ĐH Cần Thơ (2- 1790), Trường ĐH Sư phạm Hà Nội (3 - 2154), ĐH Đà Nẵng (4 - 2222), Trường ĐH Nông Lâm TP. HCM (5 - 2781), Trường ĐH Duy Tân (6 - 3008), ĐH Huế (7 - 3253), Trường ĐH Công nghệ TP Hồ Chí Minh (8 - 3279), Trường ĐH Quốc tế - ĐHQG Hồ Chí Minh (9 - 3527) và cuối cùng là ĐHQG TP Hồ Chí Minh (10 - 3536). Xếp hạng theo Châu Á, Việt Nam có ĐHQGHN ở vị trí 212, Trường ĐH Cần Thơ ở vị trí 551, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội thứ 699. Top 10 các của Châu Á – Thái Bình Dương thứ tự là: ĐHQG Đài Loan, ĐH Bắc Kinh, ĐH Thanh Hoa, ĐHQG Seoul, ĐH Tokyo, ĐH Chiết Giang, ĐH Melbourne, ĐH Hong Kong, ĐH Giao thông Thượng Hải và cuối cùng là ĐH New South Wales. Ở khu vực Đông Nam Á, vị trí thứ nhất vẫn thuộc về ĐHQG Singapore, tiếp đến là ĐH Kesetsart (Thái Lan), ĐH Công nghệ Nanyang (Singapore), ĐH Mahidol (Thái Lan), ĐH Putra (Malaysia), ĐH Chulalongkorn (Thái Lan), ĐH Chiang Mai (Thái Lan), ĐH Gadjah Mada (Indonesia) và ĐH Công nghệ Malaysia. Ngoài ĐHQGHN ở vị trí 20, Việt Nam còn có ĐH Cần Thơ vị trí 51, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội vị trí 66 và ĐH Đà Nẵng vị trí 68. Cũng trong tháng 2/2015, Cybermetrics Lab công bố xếp hạng các Thư viện số. Theo đó ĐHQGHN ở vị trí 36 Đông Nam Á, 172 Châu Á - Thái Bình Dương, vị trí 816 thế giới. Ở Việt Nam, xếp sau ĐHQGHN là Trường ĐH Dân lập Hải Phòng ở vị trí 49 Đông Nam Á, 236 Châu Á - Thái Bình Dương, 1049 thế giới. Xếp hạng Webometrics không chỉ dựa vào quy mô, số lần truy cập hay hình thức thiết kế trang web mà tập trung thúc đẩy công bố điện tử các kết quả nghiên cứu, các tài liệu và thông tin khoa học. Đồng thời đánh giá chất lượng tổng thể các mặt hoạt động của cơ sở giáo dục ĐH được thể hiện trên website, đặc biệt là kết quả nghiên cứu và số lượng công bố trong cơ sở dữ liệu Scopus. Trong bảng xếp hạng này, các cơ sở giáo dục ĐH của Việt Nam có thứ hạng thấp chủ yếu do tiêu chí chất lượng học thuật (số lượng công bố quốc tế) còn hạn chế.