Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Đình Tả Quan: công trình nghệ thuật thời Nguyễn nhiều sắc phong có giá trị

Vĩnh Quân - Tiến Bảo
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Đình Tả Quan thuộc xã Dương Quan, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thờ Đức Quý Minh, một tướng thời Hùng Duệ Vương.

Đình Tả Quan thờ Đức Quý Minh, một bộ tâm phúc của Hùng Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương) làm thành hoàng.

Đình Tả Quan thờ Đức Quý Minh. Ảnh: Tiến Bảo
Đình Tả Quan thờ Đức Quý Minh. Ảnh: Tiến Bảo

Tục truyền, Quý Minh, Cao Sơn và Tản Viên Sơn thánh là ba anh em kết nghĩa, giúp vua Hùng thứ 18 chống lại quân Thục. Trước năm 1938, làng Tả Quan còn giữ được sắc phong thuộc các đời vua.

Đức Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên Sơn thánh và Cao Sơn. Ảnh: Tiến Bảo
Đức Quý Minh là anh em kết nghĩa với Tản Viên Sơn thánh và Cao Sơn. Ảnh: Tiến Bảo

Phả ký đình Tả Quan và tộc phả nhiều dòng họ ghi lại vào năm Canh Thân và Tân Dậu đời Lê Canh Hưng (1740-1741), do gặp cảnh loạn lạc, dân làng Tá Lan phải bỏ làng phiêu bạt khắp nơi. Lúc tạm yên, các cụ Lê Phúc Hải, Nguyễn Thuận Chúng mới chiêu tập dân làng hồi hương, khôi phục lại làng xóm cũ cũ. Đức Quý Minh được nhà vua khen thưởng, dân Tá Lan (tên cũ của thôn Tả Quan) tôn thờ làm thành hoàng.

Kiến trúc bên trong của đình. Ảnh: Tiến Bảo
Kiến trúc bên trong của đình. Ảnh: Tiến Bảo

Trong đình còn lưu giữ được 14 đạo sắc phong từ đời Đức Long thứ 4 (1632) đến Khải Định thứ 9 (1925). Đức Quý Minh cùng giúp vua Hùng Vương đánh quân thục Phán, giữ yên bờ cõi, bình định giang sơn xã tắc, thời đất nước Văn Lang. 

Đình hiện còn nhiều di vật có giá trị lịch sử. Ảnh: Tiến Bảo
Đình hiện còn nhiều di vật có giá trị lịch sử. Ảnh: Tiến Bảo

Các di vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật đáng quan tâm ở đình gồm: khám thờ ngai thờ và tượng Quý Minh Đại Vương, cỗ kiêu bát cống, lọng đình, cân đối. Các đồ thờ bằng gỗ này đều được sơn son thếp vàng rộng lẫy.

Toàn cảnh ngôi đình. Ảnh: Tiến Bảo
Toàn cảnh ngôi đình. Ảnh: Tiến Bảo

Đồ sứ có 3 đôi lộc bình vẽ phù dung, chim trĩ phủ men hoa, và cảnh tùng-lộc, nhà cửa, bến sông. Có 4 tấm bia (kích thước khác nhau) là những bia hậu đình ghi tên những người cúng tiền, cúng ruộng cho đình; có bia ghi việc lấp sông, ngăn lạch để mở mang sản xuất (1735), 14 đạo sắc phong cho vị thành hoàng làng.

Đức Quý Minh được nhà vua khen thưởng, dân Tá Lan (tên cũ của thôn Tả Quan) tôn thờ làm thành hoàng. Ảnh: Tiến Bảo
Đức Quý Minh được nhà vua khen thưởng, dân Tá Lan (tên cũ của thôn Tả Quan) tôn thờ làm thành hoàng. Ảnh: Tiến Bảo

Đình Tả Quan mang kiến trúc cổ, truyền thống, đậm nét văn hóa của làng quê Việt. Ngôi đình được khởi dựng vào cuối triều Lê, đầu nhà Nguyễn (thế kỉ 17).

Lối vào nơi thờ Đức Quý Minh. Ảnh: Tiến Bảo
Lối vào nơi thờ Đức Quý Minh. Ảnh: Tiến Bảo

Ngôi đình được các bậc tiền nhân quê nhà tạo dựng trải qua gần 5 thế kỷ, bao thăng trầm lịch sử và biến cố của thiên nhiên. Đình Tả Quan không những có giá trị về văn hóa mà còn có giá trị của lịch sử dân tộc.  

Quần thể di tích đình Tả Quan. Ảnh: Tiến Bảo
Quần thể di tích đình Tả Quan. Ảnh: Tiến Bảo

Đã thành thường lệ, cứ vào ngày 10, 11, 12 tháng 11 âm lịch hàng năm, chính quyền và Nhân dân địa phương lại trọng thể tổ chức lễ hội truyền thống hay còn gọi là lễ đại kỳ phước của làng. Mọi người dân cùng hướng về nguồn cội, về với quê hương, hội tụ dưới mái đình làng, cùng dâng nén tâm nhang lên đức thành hoàng, yết cáo những thành tựu qua một năm lao động, dâng lên đức thánh những sản vật quê hương.

Ngày 12 tháng giêng âm lịch là lễ giỗ của 16 vị hậu thần có công khai khẩn đất hoang. Ảnh: Tiến Bảo
Ngày 12 tháng giêng âm lịch là lễ giỗ của 16 vị hậu thần có công khai khẩn đất hoang. Ảnh: Tiến Bảo

Tại quần thể di tích đình Tả Quan, hàng năm cứ đến ngày 12 tháng Giêng âm lịch, chính quyền địa phương tổ chức lễ giỗ của 16 vị hậu thần đã có công khai khẩn đất hoang, lập xóm dựng làng, mở mang làng xã. Theo thần phả và truyền thuyết vùng đất Tá Lan xưa kia là một vùng sú vẹt hoang vu quanh năm thuộc cồn cát cửa biển Nam Triệu.

Cổng đình Tả Quan. Ảnh: Tiến Bảo
Cổng đình Tả Quan. Ảnh: Tiến Bảo

Năm 1508, cụ Tô Kim Bảng - là người con đầu tiên của làng Tá Lan đỗ đồng tiến sĩ thời vua Lê Uy Mục. Năm 1580, cụ Nguyễn Thuận Chúng - vị tổ đầu tiên của họ Nguyễn Văn và cụ Lê Phúc Hải - cụ tổ của họ Lê Văn, từ quan về quê làm nghề cá ở cửa biển Nam Triệu. Hai cụ gặp nhau tâm đầu ý hợp và thống nhất rời gia đình đến làm ăn và sinh sống tại Tá Lan, cùng các hậu duệ, con cháu của mình qua 4 lần khai phá, quai đê lập ấp, dựng làng đã hình thành được vùng đất Tá Lan như ngày hôm nay. Công lao khai khẩn đất đai của các bậc tiền nhân đã được vua Lê Cảnh Hưng kí sắc phong hậu thần cho 16 cụ và công nhận địa giới hành chính của làng Tá Lan.

Đình Tả Quan là kiến trúc nghệ thuật từ thời Nguyễn. Ảnh: Tiến Bảo
Đình Tả Quan là kiến trúc nghệ thuật từ thời Nguyễn. Ảnh: Tiến Bảo

Lễ giỗ 16 vị hậu thần được duy trì hàng năm trở thành nét văn hóa truyền thống lịch sử, đặc trưng văn hóa bản địa thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân, việt kiều người Dương Quan ở nước ngoài trong dịp về thăm quê hương và các du khách thập phương về tham quan và tham dự lễ hội tại quần thể di tích lịch sử quốc gia đình Tả Quan.

Ảnh: Tiến Bảo
Ảnh: Tiến Bảo

Năm 1997, Bộ Văn hóa - Thông tin đã công nhận di tích kiến trúc đình Tả Quan là di tích lịch sử văn hóa xếp hạng cấp quốc gia.