Theo Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2024, cả nước đã nhập khẩu 2,65 triệu tấn sắt thép các loại, tăng 85,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thị trường nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc. Tuy nhiên, việc sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu nguyên liệu thép là vấn đề còn gây tranh cãi.
Cụ thể hơn số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu sắt thép các loại và sản phẩm từ thị trường Trung Quốc với trị giá đạt 1,72 tỷ USD, tăng 91,2% tương ứng tăng 818 triệu USD so cùng kỳ năm trước. Như vậy, thị trường Trung Quốc đang chiếm 62% trị giá nhập khẩu sắt thép các loại và sản phẩm của cả nước.
Trong đó, riêng với sản phẩm thép cán nóng (HRC) Việt Nam đã nhập 1,89 triệu tấn, trị giá trên 1 tỷ USD, nhưng nguồn thép HRC từ Trung Quốc là 1,4 triệu tấn, chiếm 74,2% tổng khối lượng.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), nhập khẩu thép vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh về số lượng từ năm 2023 đến những tháng đầu năm 2024. Năng lực sản xuất thép thành phẩm bao gồm thép xây dựng, thép cuộn cán nóng (HRC), cán nguội, tôn mạ, ống thép đạt khoảng 38,6 triệu tấn/năm. Thép Việt Nam đã đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và được xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới.
Vì thế, nhiều ý kiến lo ngại việc nhập khẩu sắt thép từ Trung Quốc nhiều sẽ gây áp lực lớn với sản xuất trong nước. Hơn nữa, giá bán của thép HRC từ Trung Quốc cũng giảm thấp nên có thể gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Nên đã có kiến nghị cho rằng cần áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm thép HRC nhập khẩu từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong văn bản kiến nghị gửi các cơ quan chức năng của nhóm 7 doanh nghiệp thép gồm Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (HSG), Công ty Cổ phần Thép TVP, Công ty Cổ phần Thép Nam Kim, Công ty Cổ phần Tôn Đông Á, Công ty Tôn Phương Nam, Công ty Cổ phần Tôn Pomina, Công ty Cổ phần Sản xuất Thép Vina One, các doanh nghiệp này lại cho rằng nếu áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại có thể ảnh hưởng đến ngành thép.
Văn bản của các công ty này lý giải, nhu cầu tiêu thụ HRC của toàn Việt Nam hiện đang nằm trong khoảng 10 triệu đến hơn 13 triệu tấn mỗi năm, vừa phục vụ cho việc sản xuất thành phẩm, vừa dự trữ lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, sản phẩm HRC trong nước chỉ được sản xuất bởi 2 doanh nghiệp, bao gồm Tập đoàn Hòa Phát (HPG) và Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS). Tổng công suất thiết kế sản xuất HRC của 2 đơn vị này khoảng 8,2 triệu tấn/năm. Giả định HPG và FHS chạy tối đa công suất và chỉ bán nội địa, không bán xuất khẩu thì vẫn không đáp ứng được nhu cầu trong nước.
Báo của VSA vào tháng 12/2023 cho biết, sản lượng HRC bán nội địa trong năm2023 đạt 3,403 triệu tấn, được phân bổ bán cho các doanh nghiệp sản xuất tôn mạ, tôn màu, ống thép để làm nguyên liệu phục vụ cho công đoạn sản xuất kế tiếp. Như vậy, sản lượng các nhà sản xuất HRC Việt Nam bán tại thị trường nội địa hiện chỉ có thể đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu HRC của toàn Việt Nam.
Về nhận định sản phẩm HRC từ Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam bán phá giá, văn bản của các doanh nghiệp thép nêu trên đã phủ định. Tính toán biên độ phá giá dựa trên các dữ liệu về giá bán nội địa HRC tại thị trường Trung Quốc từ S&P Global trong năm 2023 cùng đơn giá xuất khẩu trung bình… thì chỉ ở mức 1,26%. Trong khi Luật Quản lý Ngoại Thương năm 2017 quy định: “Không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu có biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam”.
7 doanh nghiệp thép cũng chỉ ra thực tế, HPG và FHS bán HRC cho các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam với giá cao hơn giá nhập khẩu từ 10-20 USD/tấn, cao điểm có thể chênh lệch tới 40-50 USD/tấn, nhưng vẫn được các doanh nghiệp trong nước sử dụng vì những lý do về nguồn gốc xuất xứ.
Từ những phân tích như trên, văn bản của 7 doanh nghiệp thép cho rằng, nếu áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại có thể ảnh hưởng tiêu cực tới ngành thép Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Bởi việc áp thuế phòng vệ thương mại hoặc xây dựng bất kỳ rào cản thuế quan, phi thuế quan nào khác đối với HRC nhập khẩu đều làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất tôn mạ và ống thép nội địa, hơn nữa còn làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các doanh nghiệp cũng như tác động đến các ngành nghề khác như xây dựng, bất động sản, công nghiệp, logistics…
Theo các chuyên gia, tình trạng nhập khẩu thép cũng gây rủi ro mất cân bằng cán cân thương mại, nên các cơ quan chức năng cần thiết phải tìm ra giải pháp đồng bộ từ để hài hòa, tạo sự cạnh tranh công bằng trên thị trường thép.