Giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội, lương hưu vẫn đủ sống?

Thủy Trúc
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – 13 Hiệp hội DN đề xuất giảm đóng bảo hiểm xã hội từ 32% xuống còn 24% và lương hưu vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống.

Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động và người sử dụng lao động có hợp đồng lao động vẫn giữ như Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Theo đó, người lao động đóng 10,5% (8% bảo hiểm xã hội, 1,5% bảo hiểm y tế và 1% bảo hiểm thất nghiệp) và người sử dụng lao động đóng 21,5% (17,5% bảo hiểm xã hội, 3% bảo hiểm y tế và 1% bảo hiểm thất nghiệp). Như vậy tỷ lệ đóng của cả người lao động và người sử dụng lao động là 32%.

13 Hiệp hội DN đề xuất giảm đóng bảo hiểm xã hội từ 32% xuống còn 24% nhưng lương hưu vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống. Ảnh minh họa.
13 Hiệp hội DN đề xuất giảm đóng bảo hiểm xã hội từ 32% xuống còn 24% nhưng lương hưu vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống. Ảnh minh họa.

Với quy định này, 13 Hiệp hội đại diện cho cộng đồng DN trong các ngành hàng chủ lực của Việt Nam có sử dụng nhiều lao động nhận thấy tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội này rất cao. Lý do thứ nhất được 13 Hiệp hội DN đưa ra là: Theo tính toán, tổng mức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội của cả người lao động và người sử dụng lao động dựa trên tỷ lệ đóng (từ 23% năm 2007, 25% năm 2009 do đóng thêm 1% bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và người sử dụng lao động, tăng lên 32% năm 2017 đến nay) và mức lương tối thiểu vùng (tăng hàng năm từ năm 2007 đến năm 2022, từ năm 2021 không tăng do Covid-19) thì mức đóng năm 2022 đã cao hơn gần 10 lần so với năm 2007.

Một lý do nữa được 13 Hiệp hội DN đưa ra là so với khu vực và thế giới, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động ở Việt Nam đang cao hơn rất nhiều nước. Cụ thể, Malaysia đóng 16,5%, Ấn Độ 15,25%, Indonesia 10,26%, Campuchia 6,1%, Thái Lan 5%, Myanma 2%, Bangladesh 0%; và hầu hết các nước này đều đóng bảo hiểm xã hội trên nền đóng giống Việt Nam. Tại Thái Lan, nguồn quỹ bảo hiểm xã hội không chỉ từ người lao động và người sử dụng lao động mà Chính phủ cũng đóng góp thêm.

Với những lý do được đưa ra, 13 Hiệp hội DN đề nghị: Đối với tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động và người sử dụng lao động, đưa về mức đóng của năm 2009, tức là người lao động đóng 5% và người sử dụng lao động đóng 15%, tổng cộng 20%; chứ không phải 25,5% hiện nay (người sử dụng lao động đóng 17,5% “trong đó 3% quỹ ốm đau thai sản, 14% quỹ hưu trí và tử tuất và 0,5% bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” và người lao động đóng 8%).

Đối với tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp, hiện tại Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đã kết dư quá nhiều. Trong khi mục đích của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động; và khi quỹ dư đã kết dư quá nhiều thì cần giảm mức đóng để điều chỉnh quỹ về mức cân bằng. Vì thế, 13 Hiệp hội DN đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp của người lao động còn 0,5% và của người sử dụng lao động còn 0,5% và có lộ trình giảm tiếp cho phù hợp với điều kiện thực tế.

Với tỷ lệ đóng vào quỹ bảo hiểm y tế: Người lao động đóng 1% và người sử dụng lao động đóng 2%.

Như vậy, tỷ lệ đóng của người lao động sẽ là 6,5% gồm 5% bảo hiểm xã hội, 1% bảo hiểm y tế và 0,5% bảo hiểm thất nghiệp (giảm 4% so với hiện nay). Tỷ lệ đóng của người sử dụng lao động là 17,5% gồm 15% bảo hiểm xã hội, 2% bảo hiểm y tế và 0,5% bảo hiểm thất nghiệp (giảm 4% so với hiện nay). Theo đó, tỷ lệ đóng của cả người lao động và người sử dụng lao động là 24%.

13 Hiệp hội DN cho rằng tỷ lệ đóng bảo hiểm của người sử dụng lao động và người lao động tại Việt Nam là quá cao so với các nước khác nhưng người lao động tại các nước này vẫn đảm bảo chi tiêu cuộc sống khi về hưu. Trên thực tế, tại thời điểm đóng vào quỹ thì giá trị tiền người sử dụng lao động và người lao động tại Việt Nam đóng không hề thấp.

Vì thế, 13 Hiệp hội DN đề xuất Việt Nam cần xem xét tổng thể việc quản lý một cách hiệu quả quỹ bảo hiểm xã hội cũng như cách tính trượt giá nói riêng và nền kinh tế vĩ mô nói chung để tuy rằng giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội nhưng vẫn đảm bảo lương hưu thực tế của người lao động đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống.