Năm 2015, Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia từng làm cuộc khảo sát cho thấy, ở đền Bà Chúa Kho mỗi người đi lễ chi trung bình khoảng 238.000 đồng mua sắm vàng mã. Với số lượng 800.000 lượt khách thập phương đến lễ trong một năm, số tiền chi cho đốt vàng mã tại đền ước khoảng 190 tỷ đồng/năm. Tính riêng ở Hà Nội, mỗi năm người dân Thủ đô tiêu tốn hết 400 tỷ đồng cho việc đốt vàng mã. Theo điều tra từ cuối 2017 đến đầu năm 2018, lượng tiền chi cho đốt vàng mã của người dân đã giảm 5 - 6 lần. "Trong thời gian tới Bộ VHTT&DL sẽ phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: Tuyên truyền trên loa phóng thanh tại các cơ sở thờ tự, bảng hướng dẫn, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người hiểu và sử dụng vàng mã hợp lý; tại các cơ sở tôn giáo - tín ngưỡng cần tích cực vận động, thậm chí ngăn chặn những hành vi đốt quá nhiều vàng mã khi thực hành tín ngưỡng (tương tự như đối với việc hạn chế mỗi du khách chỉ thắp một nén hương nhang khi hành lễ tại di tích). Các chư tôn đức tăng ni trụ trì các chùa, thiền viện, tu viện hướng dẫn phật tử và bà con loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo và các hình thức khác trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo Việt Nam." - Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Trịnh Thị Thủy |
Hạn chế đốt vàng mã: Không còn cảnh nói dễ làm khó
Kinhtedothi - Thay vì đỏ lửa thường xuyên, nhiều lò hóa vàng mã đã trở nên nguội lạnh. Không dùng biện pháp cứng nhắc, không hô hào suông; từng di tích, từng ban ngành đã vào cuộc để tiết kiệm hàng hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng từ việc giảm hóa mã.
Giảm đi trông thấy
Đến Phủ Tây Hồ (Tây Hồ, Hà Nội) những ngày đầu tháng Giêng năm Mậu Tuất, giai đoạn cao điểm đón du khách về lễ bái, lò hóa mã gần khu vực thờ Mẫu luôn luôn rực cháy, nhưng không còn cảnh mã lớn, mã bé đua nhau xếp hàng chờ hóa. Theo ông Trương Tín Hồi – quyền Trưởng Ban quản lý di tích Phủ Tây Hồ, với lượng khách 1 đến 2 vạn từ mùng 1 đến mùng 5, và 1 nghìn đến 2 nghìn từ mùng 6 đến rằm tháng Giêng nhưng chưa bao giờ có cảnh người đến lễ tiến voi, tiến ngựa.
Không gian quanh Phủ cho dù có nêm chặt người chiêm bái nhưng cũng không đặc quánh khói bụi của vàng mã. “Vừa rồi T.Ư Hội Phật giáo Việt Nam có văn bản kiến nghị không đốt vàng mã ở các di tích của đạo Phật. Nếu bảo cấm không đốt thì có lẽ chưa làm được, nhưng tại Phủ đã hạn chế rất nhiều người tiến nhiều vàng mã. Cụ thể, những năm trước vào trước và sau Tết Nguyên đán Ban quản lý phải thuê người chở đi từ 18 - 20 bao tải tro đốt vàng mã/ngày. Nhưng năm nay cao điểm nhất ngày 30 và ngày mùng 1 Tết chỉ chở 15 - 16 bao tải tro. Những ngày sau đó đến mùng 5 Tết khoảng 8 - 9 bao tải. Từ sau ngày mùng 6 tại Phủ Tây Hồ, số lượng tro vàng mã chỉ còn 3 - 4 bao tải. Như vậy, lượng vàng mã đốt tại Phủ trước và sau Tết Nguyên đán năm nay đã giảm. Đặc biệt, từ ngày bắt đầu vào làm việc của năm mới lượng vàng mã đốt trong các chùa chiền giảm khoảng 5 - 6 lần so với trước”.Tại chùa Hà (Cầu Giấy, Hà Nội) những ngày này, lò hóa mã đặt ở góc khuất của khu vực bên trái di tích cũng đã giảm phần rực lửa. Tro hóa mã không còn chất đầy trên lò. Người đi lễ khiêm nhường cùng thẻ hương và gửi nhà chùa ít tiền giọt dầu, công đức. Rời khỏi các di tích trọng điểm của Thủ đô, đến các chùa Láng, Bia bà dễ dàng chứng kiến cảnh lò hóa mã nguội lạnh, vắng người đến đốt. Hoàng Thị Thúy (Vũ Phạm Hàm, quận Cầu Giấy), một phật tử quen thuộc của chùa Láng chia sẻ: “Dù nhà chùa không cấm đốt vàng mã, nhưng mỗi người dân đã tự ý thức được rằng, việc làm này không chỉ gây tốn kém về tiền bạc mà còn làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan nơi cửa Phật, làm tăng nguy cơ xảy ra hỏa hoạn. Tôi được biết từ năm trước, sư trụ trì ngôi chùa này đã khuyến khích người dân thay vì mua vàng mã nên công đức số tiền đó vào chùa để hỗ trợ những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn và thực tế đã giúp được không ít người. Do đó, tôi hoàn toàn đồng tình với việc loại bỏ việc đốt vàng mã từ nhà ra đến đền chùa”.Nhiều làng sản xuất vàng mã thay đổiÔng Nguyễn Hữu Quả - người làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) từng chứng kiến thời điểm chuyển nghề từ in tranh sang làm đồ mã của địa phương, tâm sự: “Ở làng Hồ, “phiên chợ” hàng mã kéo dài quanh năm. Làng Hồ đã hết thời lội bùn đến gối. Làng Hồ bây giờ nhà nào cũng ba đến năm tầng, xe tải lớn nhỏ đậu quanh nhà, mái tôn quây kín từ tường lên nóc để tránh nước mưa, ướt giấy. Xưởng làm mã to bé mọc lên quanh làng. Nhưng 2 năm trở lại đây, nghề làm mã lại bắt đầu lụi bại. Cận Tết – mùa cao điểm của bán mã, không còn xe lớn xe bé chở mã ra khỏi làng. Có nhiều xưởng làm mã đang nhận từ 20 – 30 lao động, giảm xuống còn 1 nửa. Lương người làm công giảm đi đáng kể, công nhân bỏ việc, các xưởng mã trong làng đóng cửa quá nửa”. Nếu như từ 2003 - 2013, Nhà nước vận động, đầu tư để cứu vãn làng tranh Đông Hồ không bị “hóa mã” nhưng vẫn chẳng cứu được bao nhiêu. Năm 2013, dự án khảo sát, quy hoạch và khôi phục đình làng tranh Đông Hồ được khởi dựng với số vốn gần 60 tỷ đồng, như là cách níu giữ hồn nghề của làng tranh. Song hơn 4 năm trôi qua, ghé thăm đình làng hiện tại, tôi chỉ thấy im lìm những bóng cây đa phủ tường rêu lạnh. Thế nhưng, từ cuối năm 2017 không nhà nào bảo nhà nào, tự mỗi xưởng đã dần chuyển in mã thành in tranh. “Bây giờ đi các lễ hội, sự kiện vui chơi giải trí, trẻ em TP chuộng tô vẽ tranh Đông Hồ. Chính vì vậy, nghề in tranh lại có dịp hồi sinh” – ông Quả nhấn mạnh.