Những ngày cuối thu, chúng tôi có dịp trở lại làng Cổ Am, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử cổ kính, rêu phong mà trầm mặc.
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, Cổ Am trước đây được gọi là làng Cổ để dễ phân biệt với các làng khác có tên Am như: Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Nam Am, Liên Am…
Nhắc đến làng Cổ, người ta nghĩ ngay đến "làng khoa bảng", "đất cách mạng", "đất đẻ ra quan" bởi số lượng người tài, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ gần như đứng đầu tại Hải Phòng.
Theo truyền sử thì vùng đất ven sông biển phía đông nam huyện Vĩnh Bảo, thời xa xưa ấy đầy sú vẹt hoang vu có tên chung là Úm Mạt; những năm đầu công nguyên đã có dân cư làm ăn sinh sống.
Làng Cổ Am xưa nổi tiếng là một làng có truyền thống văn hiến - văn vật. Truyền thống học hành của làng xuất hiện nhiều nhân tài. Thời Nho học đã có câu "Đông Cổ Am - Nam Hành Thiện" nổi tiếng một vùng. Cổ Am là nơi định cư của nhiều dòng họ từ cuối thế kỷ X.
Trải qua hơn một nghìn năm xây dựng và đấu tranh, cùng với sự biến đổi của xã hội, làng đã vun đắp nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Thế kỷ XX với hai cuộc kháng chiến kéo dài, bom đạn kẻ thù đã làm tàn phá cơ sở hạ tầng, nhiều di tích bị hư hỏng và thất lạc.
Theo thần phả, thần tích và từ điển Bách khoa địa danh Hải Phòng, cùng với các làng xã khác thuộc huyện Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần có công chống giặc ngoại xâm, bình Chiêm, chinh Man, phá Tống, diệt Nguyên - Mông.
Người dân Cổ Am, dù nghèo, vẫn lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân làng, những vị quan thương dân như con. Đình, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng, trong đó có Khổng Hoàng Đại Vương, một vị quan triều Lý, từng bỏ của riêng để cứu trợ dân chúng vào những năm mất mùa. Nam Hải Đại Vương, tức Thái uý Tô Hiến Thành triều Lý, khi tuần qua làng đã ban ơn cho dân chúng.
Cổ Am có chùa Mét là công trình kiến trúc đẹp do cụ Trần Khắc Trang, chủ xưởng xây cất. Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hưng đều là di duệ của cụ Trần Khắc Trang.
Cổ Am có những dòng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Trình Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; còn có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp.
Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, thì thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi sinh ra, theo giai thoại, được các quan chiêm bốc chuyên theo dõi thiên tượng triều Bắc phương báo cáo rằng: "Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đã ra đời." Sau này, ông được phong tước Trình Tuyền hầu (do đó mới có tên Trạng Trình). Chu Sán, danh sĩ đời Minh, từng nhận xét: "An Nam Lý học hữu Trình Tuyền" - Nước Nam có Trình Tuyền hầu thông hiểu Lý số.
Cổ Am thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, dưới triều Nguyễn, vào năm 1879 đã lập Tín Nghĩa Hội, chủ trương bình Tây phục quốc và từng đem nghĩa quân đánh thành Hà Nội. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu và Đào Văn Thê khởi nghĩa chống Pháp, khí thế mạnh mẽ, đã giết tri phủ và chiếm huyện lỵ.
Robin, thống sứ Bắc Kỳ đã cho máy bay ném xuống Cổ Am đến 57 quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng vẫn không khuất phục được tinh thần và ý chí của người dân nơi đây.
Cổ Am trước khi Trạng Trình xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Trình về quê ở ẩn thì xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, gò Bút Kình Thiên, Nghiên Long Đồ, bãi Lý Ngý Quần Ngọc, cầu Trường Xuân...
Sau này Cổ Am còn có hai nhà văn nổi tiếng trên vãn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng.
Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo.
''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy.
Theo gia phả của các dòng họ thì thôn Gia Cát, thôn Thuận Hòa ngày nay có người đến ở trước, tiếp đến là rừng Mét thôn Lê Lợi, Minh Khai bây giờ, thôn Quốc Tuấn có dòng họ đến sau cũng ngót 400 năm.
Người Vĩnh Bảo nói chung và người Cổ Am nói riêng đều coi trọng sự học. Tài sản quý giá nhất ở mỗi gia đình nơi đây không phải là kho thóc đầy, cánh đồng xanh mướt, cây thuốc lào mà là những tấm bằng khen, giấy khen và tên tuổi lưu danh tại sổ vàng truyền thống của địa phương.
Vì thế, đã có nhiều lý giải cho rằng làng Cổ Am là dải đất “đầu rồng” nên cứ ai được sinh ra trên mảnh đất này thì hầu hết đều là người tài, làm quan, có chức sắc trong xã hội.
Theo số liệu thống kê, thời phong kiến, làng Cổ có 2 tiến sĩ được lập bia Văn Miếu, 1 phó bảng, 77 cử nhân, 81 tú tài. Thời cách mạng đến nay, cả làng Cổ có 80 người giữ học hàm phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ; 8 đại biểu Quốc hội và Ủy viên Trung ương Đảng; 3 nghệ sĩ, 6 nhà giáo đạt danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú; 5 Thầy thuốc Nhân dân, Thầy thuốc Ưu tú. Có thời điểm, bình quân, mỗi năm, xã Cổ Am có thêm 60 cử nhân, 5 thạc sĩ, 1 tiến sĩ.