“Chào Hà Nội chúng tôi đi”
“Chào Hà Nội chúng tôi đi. Tôi nhớ mãi tháng giêng năm ấy 1972. Lũ học trò tuổi đôi mươi. Xung phong đi đánh Mỹ. Xếp bút nghiên, nguyện làm chiến sỹ. Gửi lại quê nhà, ước vọng thanh xuân…”, ông Bùi Văn Cường (quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội) mở lời trò chuyện với chúng tôi khi đọc lại bài thơ ông viết đúng 50 năm trước.
Chậm rãi, ông kể lại: "Trong không khí sục sôi cách mạng của cả nước của những năm tháng đó, chúng mình– những thanh niên mười chín, đôi mươi khắp mọi miền đất nước đã hăng hái lên đường nhập ngũ. Nhiều người đã viết đơn bằng máu để được ra chiến trường".
Năm 16 tuổi, giấu bố mẹ, Cường làm đơn xin đi bộ đội. Đợi mãi không thấy hồi âm, chàng trai 16 tuổi lên khu đội hỏi thì được cấp trên trả lời chưa đủ tuổi. “Mình làm đơn lần thứ 2, khẩn khoản mong được chấp nhận cho lên đường đánh Mỹ. Những tin chiến thắng từ trong miền Trung, miền Đông và Tây Nam Bộ bay về càng thúc giục mình lên đường nhập ngũ”, ông Cường nhớ lại.
Tháng 1/1972 khi Tết Nguyên đán cận kề, mong ước của chàng trai cũng đã thành hiện thực khi nhận giấy gọi lên đường nhập ngũ và tự hào được gia nhập binh chủng công binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chàng trai Bùi Văn Cường được biên chế vào Tiểu độ 1, Trung đội 1, Đại đội 3, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 249 Công binh cầu phà khi 19 tuổi tròn.
“Sau thời gian huấn luyện, đơn vị mình đa phần là các chàng trai Hà Nội nhanh chóng vào tuyến lửa Vĩnh Linh giữa lúc quân ta mở cuộc tiến công lớn vào Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Trong đó, Quảng Trị là hướng tấn công chủ yếu đã trở thành nơi thử thách quyết liệt của công binh Việt Nam, tiêu biểu là Trung đoàn 249 chúng mình”, ông Cường kể.
Nhấp ngụm nước, rồi ông nói tiếp về những người lính công binh thuở đó: Lính công binh chỉ thu gọn vào 2 hướng. Dù con dốc ấy, dù ngầm ấy chạy từ đông sang tây, lính công binh vẫn gọi phần ngầm hướng về phía chiến trường xa là bến Nam, bờ Nam, còn phần hướng về hậu phương là bến Bắc, bờ Bắc.
Công việc của lính công binh bất kể ngày hay đêm là nối liền bờ Bắc với bờ Nam, rà phá bom nổ chậm, bắc phà, làm ngầm, kết nối lại những khúc đường đứt đoạn. Từ đó, đảm bảo mạch máu giao thông cho bộ đội ta và xe pháo vào chiến trường đánh giặc. Không một giờ phút nào vắng mặt người lính công binh trên các tuyến đường, bến phà... dù cho mưa bom, bão đạn.
Hai lần nối đôi bờ Nam – Bắc
Và câu chuyện của lần đầu bắc cầu qua sông Hiền Lương vẫn như ngày hôm qua ký ức của chàng trai Hà Nội ngày đó: Đúng 16 giờ ngày 1/4/1972, Tiểu đoàn 1 được lệnh vào đúng đêm 1/4/1972 phải có phà và đúng đêm 2/4/1972 phải có cầu phao ở bến Hiền Lương để chiến dịch mở thêm một mũi tiến công theo đường số 1.
“16 giờ ngày 2/4/1972, các xe bắt đầu hạ thủy khí tài trên khu vực bờ sông dài gần 2km và 2 giờ sau, 50 khoang thuyền đã được hạ thủy xong. 20 giờ ngày 2/4/1972, Tiểu đoàn trưởng Ngô Ngọc Bảng nổi hồi còi dõng dạc báo hiệu thông cầu. Lúc này, chiến cầu phao TPP 16 tấn dài 170 mét nối thông 2 bờ bến Hải sau 18 năm (1954-1972) chia cắt do âm mưu của kẻ thù”, ông Cường rưng rưng nhớ lại thời khắc lịch sử.
Bao ánh mắt rạo rực của các cán bộ, chiến sĩ công binh cũng như của nhân dân địa phương bởi niềm tin về ngày thống nhất non sông đã không còn xa khi từng đoàn xe kéo pháo, xe vận tải lăn bánh qua cầu trong Chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Dù chỉ tồn tại trong đêm 3/4 và 4/4/1972, trước khi quân địch bắn phá, chiếc cầu phao do những người lính công binh hoàn thành đã làm tròn sứ mệnh khi phục vụ cho hàng vạn đồng bào ở bờ Nam sơ tán ra Vĩnh Linh, Quảng Bình.
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trên mặt trận Trị Thiên Huế 1972, đến ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris được ký kết, Trung đoàn 249 nhận được lệnh khẩn trương bắc ngay một cầu phao qua sông Bến Hải cạnh cây cầu sắt bị bom Mỹ đánh gãy từ lâu.
“Nhận nhiệm vụ mà anh em lòng vui như được về phép vậy! Không vui sao được khi những người lính công binh chúng tôi chỉ có đêm đêm lặn lội với cọc, đinh, ván, phải bất động khi pháo sáng địch săm soi… Giờ này, giữa thanh thiên bạch nhật, chúng tôi bắc cầu chính ngay trên dòng sông Bến Hải bấy lâu chia cắt đôi bờ để Bắc Nam sum họp”, ánh mắt ông Cường sáng lên khi nhớ lại ngày tháng đó.
Các cán bộ, chiến sĩ công binh nhanh chóng tổ chức ra phá bom mìn dưới lòng sông. Những chiếc xe lội nước có lắp máy phóng từ ngược xuôi theo dòng sông để phá bom, chỉ trong một ngày, các cán bộ, chiến sĩ đã rà phá trên 100 quả bom, mìn các loại.
Tiếng súng lệnh vang lên, các cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 249 nhanh chóng triển khai nhiệm vụ. Chẳng mấy chốc chiếc cầu phao TPP 16 tấn dài 170 mét đã nối liền đôi bờ Nam - Bắc. Đúng 20 giờ, lệnh thông cầu vang lên. Đúng sáng ngày 28/1/1973, cây cầu phao nối liền hai bờ Nam - Bắc được cắt băng khánh thành.
“Nhịp cầu thân thương mà bà con hai miền hằng mong ước đã trở thành hiện thực. Nhân dân hai bờ Nam - Bắc cầm cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận Giải phóng đến mỗi lúc một đông. Tất cả chúng tôi ôm nhau quay tròn trong niềm vui sướng...", ký ức ngày tháng thanh xuân hào hùng đó của ông Bùi Văn Cường vẫn vẹn nguyên dù giờ này đã 70 tuổi và vẫn mang trong mình mảnh đạn pháo trong một lần bị thương suốt 50 năm qua.