Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Làng cổ Nghi Tàm và những dấu tích văn hóa

Chia sẻ Zalo

KTĐT - Xưa trong “Bát cảnh Hồ Tây”, Nghi Tàm hội tụ tới ba cảnh đẹp, gồm "Bến trúc Nghi Tàm" là một cây cầu, nơi trước kia các nhà thơ thường ra đó vịnh thơ, vẫn còn lưu lại đến ngày nay;

KTĐT - Xưa trong “Bát cảnh Hồ Tây”, Nghi Tàm hội tụ tới ba cảnh đẹp, gồm "Bến trúc Nghi Tàm" là một cây cầu, nơi trước kia các nhà thơ thường ra đó vịnh thơ, vẫn còn lưu lại đến ngày nay; "Đồng bông Nghi Tàm" tức cánh đồng hoa (nay đã mất đi) và "Tiếng đàn Thành Cung", nơi nhà vua phát ra tiếng đàn vẫy gọi chim muông, dấu tích vẫn còn trong sân chùa Kim Liên. Ngày nay, Nghi Tàm là một trong ba làng cổ của phường Quảng An, quận Tây Hồ. Đây là địa danh mang đậm các dấu tích văn hoá, từ các di tích lịch sử đến nghề truyền thống.


Làng Nghi Tàm được hình thành từ năm 1138, đời vua Lý Thần Tông với tên khai sinh là trại Tầm Tang. Cái tên trại do chính nhà vua đặt. Trại Tầm Tang gắn với tích công chúa Từ Hoa, con vua Lý Thần Tông dời cung về nơi này dạy dân trồng dâu, nuôi tằm tạo nên một vùng đất nổi tiếng của kinh thành Thăng Long về nghề tơ tằm. Đến thời Trần, trại đổi tên là phường Tích Ma. Sang đến thời Lê, phường Tích Ma đổi tên thành Nghi Tầm do thời Hậu Lê, tiểu thư Quỳnh Hoa cung chồng là Liễu Nghị, Tri phủ Phụng Thiên về ở đây, đã khôi phục lại nghề tằm bị mai một, đưa cung nữ ra cùng dân chăn tằm kéo tơ dệt lụa khổ nhỏ. Sau do trùng với tích bà Từ Hoa công chúa rời cung về dạy nghề cho dân làng nên đổi lại thành Nghi Tàm. Nghi Tàm thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận. Sau này qua nhiều biến chuyển thời gian, làng Nghi Tàm thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ. Trước kia, làng Nghi Tàm chia thành ba xóm: Xóm Chùa, xóm Trên, xóm Cái. Làng nổi tiếng khắp vùng về thắng cảnh đẹp. Nghi Tàm cũng là quê hương của Bà Huyện Thanh Quan, tác giả của những bài thơ hoài cổ nổi tiếng. Ngày nay, ở Nghi Tàm còn một bia đá được cho là bia ghi danh Bà Huyện Thanh Quan, hiện đang được lưu giữ tại một gia đình thuộc dòng họ.


Làng Nghi Tàm cũng nổi tiếng với nghề trồng cây cảnh và nuôi cá cảnh. Nghề trồng cây cảnh được du nhập vào Nghi Tàm từ năm 1928, khi một người làng đi bán cây cho người Trung Quốc tại phố Cát Linh rồi đưa giống về trồng. Cây cảnh Nghi Tàm được biết tới với những gốc cổ thụ hoặc các loài quý hiếm. Hiện chỉ còn một số gia đình giữ lại các gốc cây do cha ông để lại. Nghi Tàm cũng nổi tiếng là làng nuôi cá cảnh với những tay nuôi cá tài nghệ, biết lai tạo giống mới, vỗ cá đẹp, mau lớn khiến ai cũng nể trọng. Cá cảnh Nghi Tàm cung cấp cho hầu hết các chợ lớn trên địa bàn Hà Nội với chủng loại phong phú, giá cả lại rẻ, phổ biến là các giống cá nội như cá vàng, cá thần tiên, cá kiếm, cá chọi…. Nhưng làng Nghi Tàm cũng chỉ còn rất ít gia đình sinh sống bằng nghề này. Nghi Tàm vốn là đất cổ, cũng nổi danh với hai di tích chùa Kim Liên và đình Nghi Tàm được xây dựng gắn với sự hình thành và phát triển của đất Thăng Long.


Chùa Kim Liên được xây dựng cuối thời Trần, trên nền cũ của cung Từ Hoa, công chúa thời Lý, đến thời vua Lê Nhân Tông, chùa được xây dựng lại và đổi tên là Đại Bi. Năm 1736, chúa Trịnh Sâm sai các quan đem gỗ từ chùa Bảo Lâm sang trùng tu và đổi tên là Kim Liên Tự (Bông sen vàng). Chùa kiến trúc theo hình chữ tam, ba ngôi trung, thượng, hạ kết nối với nhau, mô phỏng kiến trúc chùa Tây Phương. Cả ba nếp chùa đều xây tám mái với tám đao cong vút, uyển chuyển, lợp ngói mũi hài. Toà chính của chùa có năm gian với cửa bức bàn; hai đầu hồi trang trí vòng âm dương thể hiện quan niệm sắc sắc - không không của Đạo Phật. Tam quan chùa là công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, dài 7m, kết cấu theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái đặt trên một hàng bốn cột kê chân là các tảng đá được chạm khắc hình cánh sen. Ba cửa ra vào được chạm trổ rất tinh tế  hình hoa cúc, trúc. Đến nay, chùa còn lưu giữ được các bia đá, trong đó tấm bia cổ nhất dựng năm Thái Hoà nguyên niên (1443). Tấm bia dựng ngày 22/9/1639 (năm Dương Hoà thứ 5) ghi lại việc trùng tu chùa Đại Bi và tấm bia dựng ngày 24/6/1868 (năm Tự Đức thứ 21) đề “Kim Liên tự bi ký” cho biết rõ những lần chùa được trùng tu, đổi tên. Chùa có 47 pho tượng được tạc thời Lê, Tây Sơn và thời Nguyễn, trong đó có 35 pho tượng Phật, mỗi pho biểu hiện nét sống động với  nội tâm riêng. Tại chùa Thượng, tượng công chúa Từ Hoa mặc áo trắng và Quỳnh Hoa mặc áo đỏ được tôn là Bà chúa nghề tằm.


Đình Nghi Tàm cũng có từ thời Lê và thờ sáu vị thành hoàng là Thượng đẳng tối linh thần: Minh Khiết Dực thánh thần, Triều Đình Phù Quốc thần, Bảo Trung cương Đoán thần, Hoàng Hiệp Tây Hồ Thuỷ thần, Lỗ Quốc Thái Sư thần, Quỳnh Hoa Đoan Trang Công Chúa thần. Đình Nghi Tàm xưa gồm  5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung. Các gian đều được làm bằng khung gỗ lim chắc khoẻ, chân cột đình đều lát đá xanh. Đến nay, đình chỉ còn 3 gian hậu cung, lưu giữ nguyên vẹn ngai thờ, cửa võng với các hoạ tiết chạm trổ rất tinh xảo. Bốn bia hậu mang bốn kiểu dáng và chạm hoạ tiết trên đá khác nhau mang phong cách thời Lê. Hàng năm, dân  Nghi Tàm tổ chức lễ hội vào ngày 9 và 10/2 Âm lịch tưởng nhớ các vị Thành  hoàng.