Trong bối cảnh ngành y tế ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức và nhu cầu chăm sóc sức khỏe chất lượng cao không ngừng gia tăng, du lịch y tế đang trở thành xu hướng phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia. Từ Thái Lan, Singapore đến Hàn Quốc, hàng loạt mô hình thành công đã chứng minh rằng, kết hợp giữa dịch vụ y tế và dịch vụ du lịch chuyên nghiệp có thể tạo nên một ngành kinh tế mũi nhọn, mang lại giá trị kép về sức khỏe và lợi ích kinh tế. Với nhiều tiềm năng về nguồn nhân lực, hệ thống y tế đang chuyển mình cùng cảnh quan, văn hóa phong phú, Việt Nam đứng trước cơ hội lớn để bứt phá trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để du lịch y tế thực sự cất cánh, chúng ta cần học hỏi từ những bài học quốc tế và có chiến lược bài bản, phù hợp với điều kiện thực tiễn trong nước.
“Tôi chỉ phải trả 1/5 chi phí so với ở Australia, không phải chờ đợi hai năm, và được phục hồi trong khách sạn sang trọng với giá rẻ hơn mức khấu trừ bảo hiểm. Các bác sĩ được đào tạo tại Pháp thật sự xuất sắc - thật tiếc khi tôi không biết đến du lịch chữa bệnh ở Việt Nam sớm hơn”, bà Helen Lock, bệnh nhân người Melbourne, Australia chia sẻ với phóng viên Kinh tế & Đô thị sau ca thay khớp háng tại Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec, Hà Nội.
Câu chuyện của bà Helen Lock không chỉ là một trải nghiệm cá nhân mà phản ánh một thực tế đang mở ra: Việt Nam đang dần khẳng định vị thế của mình trên bản đồ du lịch y tế toàn cầu.
Trở thành một trong những điển hình thành công trong công tác phòng chống và chiến thắng đại dịch Covid-19, Việt Nam đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ với thế giới. Ngành y tế Việt Nam cũng đã đạt được bước tiến mới, tiệm cận với các quốc gia có nền y tế phát triển. Thực tế này mở ra cơ hội mới cho thị trường du lịch y tế tại Việt Nam.
Theo nghiên cứu tại một số quốc gia cho thấy hiệu quả rõ rệt của du lịch y tế. Tại Trung Quốc, các liệu pháp y học cổ truyền tại Boao Lechen (Hải Nam) thu hút hàng nghìn khách hàng quốc tế, thúc đẩy doanh thu và nghiên cứu y sinh. Tại Thái Lan, phẫu thuật tim và thẩm mỹ với chi phí thấp (25.000-30.000 USD so với 100.000 USD ở Mỹ) tạo doanh thu 600-700 triệu USD mỗi năm. Tại Malaysia, dịch vụ y tế giá thấp hơn 30-50% mang về 1,7 tỷ USD, thúc đẩy kinh tế và đầu tư. Tại Hàn Quốc, phẫu thuật thẩm mỹ và điều trị ung thư đạt doanh thu 4,3 tỷ USD, quảng bá văn hóa K-pop. Tại Nhật Bản, du lịch onsen và điều trị ung thư tạo doanh thu 13 tỷ USD, bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế địa phương.
Cụ thể hơn, Thái Lan - quốc gia dẫn đầu khu vực về du lịch y tế với hệ thống BV đạt chuẩn quốc tế như Bumrungrad, Bangkok Hospital. Dịch vụ y tế chất lượng cao, chi phí thấp hơn 30–50% so với phương Tây, thu hút hàng triệu lượt bệnh nhân quốc tế. Năm 2019, ngành này mang về 4,2 tỷ USD doanh thu. Thái Lan triển khai chính sách “Sức khỏe để giàu có”, kết hợp y học cổ truyền, nghỉ dưỡng và dịch vụ đa ngôn ngữ, tạo sức hút mạnh mẽ. Tuy nhiên, vẫn đối mặt cạnh tranh khu vực và thách thức về tiêu chuẩn đạo đức, an toàn.
Còn Trung Quốc đẩy mạnh du lịch y tế tại Khu thí điểm Boao Lecheng (Hải Nam), cung cấp liệu pháp tế bào, gen và y học cổ truyền. Khu vực này đón hàng trăm nghìn bệnh nhân mỗi năm, nhờ chính sách thị thực linh hoạt và cho phép thử nghiệm thiết bị, thuốc mới. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe kết hợp du lịch nghỉ dưỡng cũng được phát triển tại Vân Nam, Quảng Châu. Ngành này góp phần quảng bá y học cổ truyền và thúc đẩy kinh tế địa phương.
Singapore nổi bật với hệ thống y tế kỹ thuật cao, dịch vụ chuyên sâu (ung thư, tim mạch, ghép tạng…) tại các BV chuẩn JCI như Raffles, Gleneagles. Chi phí thấp hơn nhiều so với Mỹ, nhưng chất lượng cao. Trước đại dịch, Singapore đón 500.000 bệnh nhân quốc tế mỗi năm, thu về hơn 1 tỷ USD. Mô hình “Singapore Medicine”, cơ sở hiện đại, đội ngũ đa ngôn ngữ và chính sách visa y tế linh hoạt là những lợi thế cạnh tranh nổi bật.
Malaysia trở thành trung tâm y tế khu vực nhờ dịch vụ tốt, giá cả hợp lý (rẻ hơn 40–60% so với phương Tây). Năm 2022, nước này đón 850.000 khách du lịch y tế, tạo doanh thu khoảng 290 triệu USD. Chính phủ hỗ trợ thông qua Hội đồng Du lịch Y tế Malaysia (MHTC), miễn thuế, cấp visa và triển khai chương trình “Bệnh viện Du lịch Y tế Tiêu biểu”. Malaysia kết hợp khám chữa bệnh với trải nghiệm văn hóa để gia tăng giá trị.
Hàn Quốc định vị du lịch y tế là ngành kinh tế chiến lược. Năm 2024, nước này đón hơn 1,17 triệu lượt bệnh nhân quốc tế, với thế mạnh về thẩm mỹ, nha khoa, điều trị ung thư. Dịch vụ nha khoa tăng 450%, phẫu thuật thẩm mỹ tăng hơn 200% so với năm trước. Hệ thống y tế hiện đại, chỉ số chăm sóc sức khỏe hàng đầu thế giới và chính sách visa y tế linh hoạt giúp Hàn Quốc duy trì đà tăng trưởng, dù có gián đoạn từ đình công ngành y.
Số liệu của Global Market Insights (2019) cho thấy, quy mô thị trường du lịch y tế đạt 19 tỷ USD năm 2018, dự kiến tăng trưởng 6,5% giai đoạn 2019–2025, và đạt 30 tỷ USD vào năm 2025.
Sự thành công của các nước này một phần nhờ chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, coi du lịch y tế là ngành kinh tế trọng điểm. Điều này cũng thu hút đầu tư tư nhân vào hệ thống bệnh viện.
Với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực y tế, ông George Adams – CEO của Medical Tourism Vietnam, thuộc Tập đoàn Medical Tourism - là người đã khởi xướng một trong những dự án du lịch y tế đầu tiên tại Panama vào năm 2004, trước khi thành lập trang MedicalTourismVietnam.com tại Hà Nội vào năm 2011. Qua chặng đường dài gắn bó với ngành, ông đã tận mắt chứng kiến những bước tiến rõ rệt của Việt Nam trong lĩnh vực đầy tiềm năng này.
“Việt Nam đang dần khẳng định vị thế là trung tâm cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao với chi phí hợp lý tại khu vực châu Á, bên cạnh những điểm đến nổi bật như Singapore hay Thái Lan”, ông George Adams chia sẻ với Kinh tế & Đô thị.
Theo Tạp chí Forbes, TP Hồ Chí Minh hiện đang dẫn đầu cả nước về thị phần du lịch y tế, với các dịch vụ thế mạnh gồm y học cổ truyền, phẫu thuật thẩm mỹ và nha khoa. Trong khi đó, Hà Nội được đánh giá cao trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, đặc biệt là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Hiện mỗi năm, Việt Nam thực hiện khoảng 30.000 ca IVF, xếp đầu khu vực ASEAN.
Ngoài ra, theo Tạp chí International Living (Australia), Việt Nam nằm trong Top 3 điểm đến được du khách Australia tin tưởng lựa chọn cho dịch vụ nha khoa, nhờ chất lượng dịch vụ cao trong khi chi phí lại thấp hơn đáng kể. Ví dụ, một ca điều trị nha khoa tại Australia có thể tiêu tốn khoảng 4.500 AUD, thì tại Việt Nam chỉ dao động từ 500 đến 800 AUD. Dịch vụ răng sứ tại Việt Nam cũng rẻ hơn khoảng một phần ba so với tại Mỹ, Australia hay EU.
Chi phí hợp lý là một trong những lợi thế rõ rệt nhất của Việt Nam. Một ca IVF ở Việt Nam hiện chỉ bằng 1/3 giá tại các quốc gia ASEAN và khoảng 1/4 so với tại Mỹ – nơi chi phí trung bình lên tới 20.000 USD/ca. Không chỉ rẻ hơn, thời gian điều trị tại Việt Nam cũng ngắn hơn đáng kể. Nếu như các dịch vụ nha khoa như làm răng sứ thường mất 2–3 tháng tại Mỹ hoặc Australia, thì tại Việt Nam hoặc Thái Lan, quy trình này chỉ kéo dài khoảng 2 tuần.
So sánh với các đối thủ lớn trong khu vực, ông George Adams đánh giá Việt Nam không chỉ có lợi thế về chi phí, mà còn sở hữu chất lượng dịch vụ ngày càng cải thiện và tiềm năng phát triển chưa được khai thác đúng mức. Trong khi Thái Lan và Singapore đã xây dựng được hình ảnh mạnh thông qua các chiến dịch quảng bá toàn cầu, thì Việt Nam, dù ít ồn ào hơn, lại có thể mang đến giá trị tương đương, thậm chí vượt trội trong nhiều trường hợp. Ông dẫn chứng: “Chi phí một ca phẫu thuật bắc cầu động mạch vành tại Việt Nam chỉ khoảng 18.000 USD, trong khi tại Mỹ lên tới 130.000 USD. Những thủ thuật phổ biến như cấy ghép răng hay mổ đục thủy tinh thể cũng rẻ hơn từ 60 – 80% so với Australia hoặc Anh”.
Cùng chung nhận định, bà Phạm Thị Thu Hương - chuyên gia quốc tế có nhiều năm làm việc trong lĩnh vực y tế tại Ả Rập và hiện là Quản lý khoa Du lịch Y tế, Hệ thống Y tế Vinmec cho rằng, du lịch y tế đang nổi lên như một ngành đầy triển vọng. Theo bà, nhiều bệnh nhân ngày nay không chỉ tìm đến các phương pháp điều trị tiên tiến với chi phí hợp lý hơn, mà còn mong muốn kết hợp với trải nghiệm du lịch, khám phá văn hóa tại điểm đến.
“Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được những kỳ vọng đó. Chúng ta có lợi thế về cảnh quan, văn hóa, hạ tầng y tế hiện đại và chi phí cạnh tranh. Với nhận thức ngày càng cao và chiến lược hợp tác đúng đắn, tiềm năng phát triển du lịch y tế của Việt Nam là rất lớn”, bà Hương nhận định.
Tạp chí Forbes cũng ghi nhận xu hướng tích cực từ phía khách quốc tế đến Việt Nam. Trong thời gian qua, họ chủ yếu sử dụng các dịch vụ như: khám sức khỏe tổng quát (48%), nha khoa (39%) và tư vấn y tế (38%). Đáng chú ý, có tới 87% khách hàng cho biết sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ y tế tại Việt Nam trong vòng 6–12 tháng tới, đặc biệt với nha khoa (59%) và khám sức khỏe định kỳ (58%).
Dẫn đầu là Hệ thống Y tế Vinmec với 67% độ nhận diện thương hiệu trong cộng đồng quốc tế, nổi bật tại Hà Nội (80%) và Đà Nẵng (78%), đạt chứng nhận JCI, có Trung tâm Tim mạch đạt chuẩn ACC (Mỹ). Nhiều BV lớn tại Hà Nội như Bạch Mai, E, Răng Hàm Mặt T.Ư, Y học cổ truyền, Hữu nghị, Bưu điện, Xanh Pôn; và tại TP Hồ Chí Minh như Chợ Rẫy, 115, Từ Dũ, Đại học Y Dược… đã được khách quốc tế tin tưởng. Tuy nhiên, thị trường du lịch y tế Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để tiếp tục phát triển.
Bên cạnh những nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, việc định hình và “làm thương hiệu” cho du lịch y tế Việt Nam được các chuyên gia nhận định là cấp thiết. CEO George Adams khẳng định, Việt Nam có thể học hỏi từ mô hình kết hợp y tế - du lịch của Thái Lan (BV trực tiếp triển khai tour y tế), cũng như chiến lược định vị “cao cấp” của Singapore.
“Thách thức của Việt Nam không nằm ở chất lượng, mà ở nhận thức: định kiến “bác sĩ châu Á” vẫn tồn tại, dù những cơ sở như BV Mắt Quốc tế Nhật Bản (JIEH) hay Phòng khám Đa khoa Dr. Binh’s Teleclinic đã chứng minh được năng lực đạt chuẩn quốc tế”, CEO của Medical Tourism Vietnam đánh giá.
Một chiến dịch quốc gia, ví dụ “Vietnam: World-Class Care, Zero Waitlists” (Việt Nam: Chăm sóc đẳng cấp quốc tế, không còn danh sách chờ) có thể gây tầm ảnh hưởng lớn, ông gợi ý. Bên cạnh đó, Việt Nam cần chủ động quảng bá hệ thống y tế thông qua việc chia sẻ các câu chuyện thành công của bác sĩ, các giải thưởng và chứng nhận quốc tế.
Còn theo bà Phạm Thị Thu Hương thì, “Việt Nam cần nhấn mạnh khả năng phục vụ bệnh nhân bằng nhiều ngôn ngữ, tôn trọng sự đa dạng văn hóa, và mang đến trải nghiệm dịch vụ - chăm sóc y tế đẳng cấp quốc tế”.
Rõ ràng, với chi phí cạnh tranh, chất lượng dịch vụ ngày càng tiệm cận chuẩn toàn cầu, cùng sự hậu thuẫn chính sách đúng đắn, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành trung tâm du lịch y tế mới của châu Á - nơi bệnh nhân quốc tế không chỉ tìm thấy dịch vụ y tế chất lượng cao, mà còn cả cơ hội phục hồi trong một đất nước giàu bản sắc văn hóa.
Trước nhiều ý kiến gợi mở cho Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết, để thu hút bệnh nhân quốc tế, việc quảng bá hình ảnh và xây dựng thương hiệu y tế Việt Nam thực sự có vai trò then chốt. Bộ Y tế xác định truyền thông là một trong những giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao uy tín và gia tăng sức hút của ngành y tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cũng theo Thứ trưởng, Bộ Y tế đang triển khai chiến lược truyền thông nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam như một điểm đến an toàn, tin cậy và chất lượng trong chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ với Bộ VHTT&DL cùng các cơ quan ngoại giao và địa phương, để xây dựng và quảng bá thương hiệu “Du lịch y tế Việt Nam”. Hoạt động này không chỉ tập trung trong nước mà còn hướng tới các thị trường tiềm năng như ASEAN, Đông Bắc Á, châu Âu và Bắc Mỹ, nơi có nhiều kiều bào và du khách quốc tế quan tâm đến dịch vụ y tế chất lượng cao với chi phí hợp lý.
Cùng với đó, Bộ Y tế khuyến khích và hỗ trợ các BV, cơ sở y tế tăng cường hợp tác quốc tế, liên kết với các hãng hàng không, công ty lữ hành và hệ thống truyền thông quốc tế để xây dựng các gói sản phẩm du lịch y tế đặc thù. “Đây vừa là hoạt động quảng bá trực tiếp, vừa là cách tạo dựng thương hiệu thông qua trải nghiệm thực tế của bệnh nhân và du khách” – Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh.
Các chuyên gia quốc tế cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục có chính sách khuyến khích phát triển, phối hợp hơn nữa giữa ngành y tế và du lịch, đồng thời cần trang bị kĩ năng ngoại ngữ để đội ngũ nhân lực y tế sẵn sàng phục vụ khách quốc tế, từ bài học của “những cái tên” sáng láng trong khu vực như Thái Lan hay Singapore.
“Hiện hầu hết khách quốc tế trong ASEAN chọn bệnh viện đạt chuẩn JCI (Joint Commission International). Trong khi Thái Lan dẫn đầu ASEAN với 67 bệnh viện được JCI công nhận, Indonesia có 31 bệnh viện, Việt Nam hiện mới có 4 bệnh viện đạt JCI”, ông George Adams lưu ý.
Cùng quan điểm đó, chuyên gia Phạm Thị Thu Hương cho rằng, những thách thức còn tồn tại bao gồm mức độ nhận diện quốc tế còn hạn chế, số lượng chứng chỉ quốc tế chưa nhiều, và nhu cầu tăng cường kết nối với các đối tác y tế - bảo hiểm toàn cầu.
Bộ Y tế Việt Nam nhận thấy tiềm năng của du lịch y tế và đã bước đầu có những hành động tạo lập cơ chế chính sách. Một vài trong số đó mà các chuyên gia mong mỏi khuyến nghị sắp tới là giảm thuế nhập khẩu đối với thiết bị thẩm mỹ, trồng răng và vật tư y tế, hỗ trợ tài chính để các bệnh viện tầm trung đạt chứng nhận JCI…
Theo thông tin từ Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Y tế, trong tiến trình hội nhập và hướng tới chuẩn mực y tế toàn cầu, Việt Nam đã chủ động mở rộng mạng lưới hợp tác với khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, ngành y còn duy trì quan hệ với hơn 20 tổ chức quốc tế, cùng trên 200 tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính quốc tế, quỹ toàn cầu, trường đại học, viện nghiên cứu và trung tâm khoa học lớn khắp thế giới.
Không chỉ dừng ở hợp tác song phương, Bộ Y tế Việt Nam còn tích cực tham gia vào nhiều cơ chế hợp tác đa phương, tiêu biểu như ASEAN, ASEM, APEC, ACMECS, CLMV, cũng như các diễn đàn y tế toàn cầu do WHO, UNICEF, UNFPA, UNAIDS khởi xướng.
Hợp tác y tế luôn là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới. Điển hình, theo Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc E. Knapper, năm 2013, Việt Nam cùng với Uganda là hai quốc gia đầu tiên được chọn để triển khai Sáng kiến An ninh Y tế Toàn cầu. Nhờ kết quả tích cực từ dự án này, đến năm 2014, Việt Nam trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên nhận được hỗ trợ từ Chính phủ Mỹ nhằm phát triển các hệ thống mô hình y tế, thúc đẩy mạnh mẽ Chương trình Nghị sự An ninh Y tế Toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam còn nằm trong nhóm 10 quốc gia ưu tiên được Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) hỗ trợ kỹ thuật và tài chính trực tiếp. Điều này thể hiện vai trò và vị thế ngày càng được củng cố của Việt Nam trong mạng lưới y tế toàn cầu.
Đề cập đến nội dung này, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên khẳng định: Hợp tác quốc tế sẽ tiếp tục là một trong những yếu tố then chốt giúp ngành y tế Việt Nam nâng cao chất lượng dịch vụ, cập nhật nhanh các tiến bộ y học, đồng thời tăng cường năng lực ứng phó với các thách thức y tế toàn cầu. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Bộ Y tế xác định hợp tác quốc tế không chỉ là kênh huy động nguồn lực hiệu quả mà còn là cầu nối để học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ y tế. “Bộ Y tế tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa các quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, đối tác song phương và đa phương, nhằm phát triển ngành y tế Việt Nam theo hướng hiện đại, bền vững và tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Thông qua hợp tác quốc tế, Việt Nam có điều kiện để xây dựng hệ thống y tế vững mạnh, đồng thời đóng góp tích cực vào các sáng kiến y tế khu vực và toàn cầu.” - Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên nói.
Có thể khẳng định, với nền tảng y tế và du lịch sẵn có, cùng với chiến lược phát triển rõ ràng và sự hậu thuẫn từ các đối tác quốc tế, Việt Nam đang có đầy đủ điều kiện để vươn lên trở thành một điểm đến hấp dẫn hàng đầu trong khu vực về du lịch y tế trong những năm tới.
Còn về phía Bộ VHTT&DL, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Văn Hùng cho biết, thời gian qua, ngành Du lịch đã nhận được sự quan tâm sâu sắc từ Đảng, Nhà nước cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ từ các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Điều này đã tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển của du lịch Việt Nam.
“Du lịch không thể phát triển đơn lẻ. Sự đồng lòng, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và toàn thể Nhân dân là yếu tố then chốt. Đặc biệt, sự tham gia và đồng hành của người dân chính là sức mạnh cốt lõi giúp ngành Du lịch bứt phá,” Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh.
Trong định hướng phát triển, ngành Du lịch đã xác lập rõ các thị trường trọng điểm từ cấp quốc gia đến địa phương, dựa trên quan điểm: “Thị trường là trung tâm, thương hiệu là nền tảng”. Theo đó, 10 thị trường chiến lược được Bộ trưởng nêu rõ gồm: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia, châu Âu, Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Đông và Nga.
Bên cạnh việc xác định rõ thị trường, Bộ cũng đặt mục tiêu phát triển các sản phẩm du lịch có quy mô lớn, hàm lượng giá trị cao và mang bản sắc riêng. Các địa phương sẽ nhận được sự hỗ trợ để xây dựng những sản phẩm xứng tầm, có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch sẽ được đổi mới theo hướng hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, gắn kết chặt chẽ giữa các bên liên quan.
“Hiện nay, mỗi du khách quốc tế đến Việt Nam chi tiêu trung bình khoảng 1.500 USD – một con số biết nói phản ánh sự tăng trưởng rõ nét của ngành Du lịch. Chúng tôi đặt mục tiêu nâng mức chi tiêu này lên 2.000 USD/khách,” Bộ trưởng chia sẻ.
Ông cũng khẳng định, du lịch không chỉ là một ngành kinh tế mũi nhọn mà còn có tác động lan tỏa mạnh mẽ tới 18 ngành kinh tế khác. Với vai trò đó, du lịch còn được xem là “ngành kinh tế truyền cảm hứng” cho sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước.
Xem các bài viết liên quan đến loạt bài “Du lịch y tế Việt Nam: Đón bệnh nhân, mở cánh cửa hội nhập”:
Bài 1: Cơ hội vàng giữa dòng chảy toàn cầu
Bài 2: Điểm đến hy vọng của bệnh nhân quốc tế






